Luận văn thạc sĩ Y học: Thực trạng và một số yếu tố nguy cơ nhiễm giun truyền qua đất ở người Êđê Buôn Buôr và Earang tỉnh Đắk Lắk năm 2007-2008 Lưu

Luận văn thạc sĩ Y học: Thực trạng và một số yếu tố nguy cơ nhiễm giun truyền qua đất ở người Êđê Buôn Buôr và Earang tỉnh Đắk Lắk năm 2007-2008

Danh mục: , Người đăng: Văn Hải Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt Định dạng: , Lượt xem: 15 lượt Lượt tải: 1 lượt
Tài liệu, tư liệu này được sưu tầm từ nhiều nguồn và được chia sẻ lại với mục đích tham khảo, các bạn đọc nghiên cứu và muốn trích lục lại nội dung xin hãy liên hệ Tác giả, bản quyền và nội dung tài liệu thuộc về Tác Giả & Cơ sở Giáo dục, Xin cảm ơn !

Nội dung

ĐẶT VẤN ĐỀ

Giun truyền qua đất (GTQĐ) có ba loại chủ yếu ở người, đó là giun đũa, giun tóc và giun móc/mỏ [9].

Giun truyền qua đất rất phổ biến, theo Tổ Chức Y tế thế giới ước tính mỗi năm trên toàn thế giới có 130 quốc gia và khoảng 2 tỷ người nhiễm truyền qua đất, 135.000 người chết và 800 triệu học sinh bị nhiễm.

Giun truyền qua đất gây thiệt hại lớn về kinh tế và sức khỏe cho người dân, mỗi năm trên thế giới được ước tính nhiễm giun đũa ký sinh trong cơ thể người trung bình có thể tiêu thụ tới 28.616 tấn gạo; 31,8 tấn thịt; số máu bị mất do giun móc/mò gây ra lên tới 27.798.400 lít và do giun tóc là 1.461.460 lít.

Việt Nam là nước nhiệt đới, có địa lý phức tạp, có nhiệt độ, độ ẩm và các yếu tố khác rất phù hợp cho bệnh giun sán phát triển quanh năm. Hơn nữa, nước ta có nền kinh tế, chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp với tập quán bón phân cho cây trồng càng làm cho nguy cơ cao mắc các bệnh Ký sinh trùng đường ruột trong đó chủ yếu là các loại giun truyền qua đất. Ở Việt Nam tỷ lệ giun truyền qua đất cao có liên quan chặt chẽ với đói nghèo, vệ sinh môi trường kém, dịch vụ y tế thiếu thốn; toàn quốc có 60 triệu người nhiễm giun đũa, 40 triệu người nhiễm giun tóc, 20 triệu người nhiễm giun móc/mỏ. Theo Viện Sốt rét- Ký sinh trùng- Côn trùng ước tính ở Việt Nam, cứ 10 người thì có tới 7-8 người có nhiễm giun sán đường ruột.

ĐắkLắk là một tỉnh nằm trên Cao Nguyên phía Tây Nam của nước ta, có đầy đủ các yếu tố tự nhiên và xã hội thích hợp cho sự tồn tại và phát triển không những cho bệnh ký sinh trùng nói chung mà còn cho cả bệnh Giun truyền qua đất. Kết quả nghiên cứu của Ngô Thị Tâm (2005) [34] cho thấy tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất ở cộng đồng dân cư Kinh, M’Nông, H’Mông, Tày và Êđê còn rất cao (75.16%), trong đó, nhiễm giun móc/mỏ là (52,70%) cao nhất ở nhóm M’Nông, Tày rồi đến nhóm ÊĐê và Kinh, nhiễm giun đũa là 24,72%, cao nhất ở nhóm Ê Đê, Kinh, đến M’Nông và Tày, nhiễm giun tóc là 14,84%, cao nhất ở nhóm Ê Đê, Kinh đến M’Nông và Tày. Cả 4 nhóm dân tộc chủ yếu nhiễm 1 loại (79,5%).

Theo Nguyễn Công Hòa (2007) [12] tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh trường dân tộc nội trú AmaTrang Long là rất cao (71,76%), trong đó nhiễm giun móc/mỏ chiếm tỷ lệ cao nhất (68,42) kế đến là giun đũa (13,16% và thấp nhất là nhiễm giun tóc (2,3%).

Vấn đề giảm tỷ lệ, cường độ nhiễm giun sán nói chung và các loại giun truyền qua đất nói riêng ở khu vực Tây Nguyên, đặc biệt những vùng sinh sống của đồng bào dân tộc thiểu số bản địa Tây Nguyên là việc làm rất cần thiết và cấp bách. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:

Thực trạng và một số yếu tố nguy cơ nhiễm giun truyền qua đất ở người Êđê buôn Buôr và Earang tỉnh Đắk Lắk năm 2007 – 2008“.

Với các mục tiêu sau:

1. Xác định tỷ lệ, cường độ nhiễm giun truyền qua đất ở người Êđê buôn

Buôr và Earang thành phố Buôn Ma Thuột.

2. Mô tả một số yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến nhiễm giun truyền qua đất của người dân Ê đê tại địa điểm nghiên cứu.

Tải tài liệu

1.

Luận văn thạc sĩ Y học: Thực trạng và một số yếu tố nguy cơ nhiễm giun truyền qua đất ở người Êđê Buôn Buôr và Earang tỉnh Đắk Lắk năm 2007-2008

.zip
1.88 MB

Có thể bạn quan tâm

Lưu tài liệu Tải tài liệu