Luận văn thạc sĩ Xã hội học: Tìm hiểu những nguyên nhân dẫn tới tình trạng kém hiệu lực của chính quyền cơ sở Lưu

Luận văn thạc sĩ Xã hội học: Tìm hiểu những nguyên nhân dẫn tới tình trạng kém hiệu lực của chính quyền cơ sở

Danh mục: , Người đăng: Văn Hải Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt Định dạng: , Lượt xem: 12 lượt Lượt tải: 0 lượt
Tài liệu, tư liệu này được sưu tầm từ nhiều nguồn và được chia sẻ lại với mục đích tham khảo, các bạn đọc nghiên cứu và muốn trích lục lại nội dung xin hãy liên hệ Tác giả, bản quyền và nội dung tài liệu thuộc về Tác Giả & Cơ sở Giáo dục, Xin cảm ơn !

Nội dung

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nước ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Trong tình hình đó, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực đang là một yêu cầu bức thiết ở nước ta hiện nay. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó, một trong những nhiệm vụ cấp bách hiện nay là phải nâng cao hiệu lực của chính quyền cấp xã. Cơ sở khoa học và thực tiễn của vấn đề trên thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, nhìn theo chiều từ trên xuống, xét về quy mô và cấp độ tổ chức thì chính quyền cấp cơ sở là cấp chính quyền thấp nhất trong hệ thống quản lý nhà nước. Trong chừng mực nào đó, chính quyền xã tồn tại với tư cách là “cái vi mô” của nhà nước, của xã hội nhưng đồng thời cũng là “cái vĩ mô” của đời sống của nó. Xã là một tế bào, làm nên sự sống cho chính cơ thể nó đồng thời đem lại sự sống cho cả cơ thể lớn hơn là xã hội. Để xã hội phát triển ổn định thì nhất thiết cần tới sự hoàn thành tốt chức năng của chính quyền xã.

Thứ hai, xét theo chiều từ dưới lên thì xã chính là cơ sở, là nền tảng của nhà nước và xã hội. Nói tới cơ sở là nói tới dân và cuộc sống của dân. Sự ổn định bắt đầu từ ổn định ở cơ sở. Đó là tiền đề của sự phát triển. Sự mất ổn định cũng bắt đầu từ mất ổn định ở cơ sở. Đó là dấu hiệu đầu tiên của tình huống mất ổn định trên quy mô xã hội. Chính quyền cấp cơ sở là cấp chính quyền gần dân nhất, trực tiếp giải quyết các công việc của người dân nên bộ máy chính quyền cơ sở phải nắm bắt và phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế xã hội, tổ chức cuộc sống dân cư trên địa bàn. Điều đó đòi hỏi chính quyền cấp cơ sở phải trong sạch, vững mạnh.

Thứ ba, mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước muốn thực sự đi vào đời sống xã hội đều phải được triển khai thực hiện ở cấp cơ sở. Cấp xã chính là cấp hành động, tổ chức thực hiện đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng và nhà nước. Vì vậy, các cơ quan trong bộ máy chính quyền cơ sở phải đảm bảo hoàn thành tốt vai trò, thực hiện đúng chức năng. Cán bộ cơ sở phải là những người có năng lực giỏi trong việc tập hợp nhân dân, vận động nhân dân, tạo nên phong trào hành động, hướng vào phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội tại cơ sở.

Trong khi đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn đã nêu một số yếu kém trong công tác quản lý bộc lộ sự yếu kém về hiệu lực của chính quyền cơ sở: Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, vừa không giữ đúng kỷ cương phép nước xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng [24]. Nghị quyết cũng nhấn mạnh cần có biện pháp sát hợp với những nơi tập trung đồng bào dân tộc thiểu số trong việc hướng dẫn chỉ đạo thực hiện nghị quyết đối với cơ sở [24].

Năm 2006, báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 2005 – 2010 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục nhận định bộ máy chính quyền cơ sở nhiều nơi yếu kém [30].

ĐăkLăk là một tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên – nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số. Trong những năm qua, với những chính sách ưu đãi của Chính phủ, nỗ lực của chính quyền địa phương, kinh tế – xã hội của tỉnh đã có những chuyển biến tích cực. Góp phần vào sự phát triển chung đó, có vai trò không nhỏ của chính quyền cơ sở. Tuy vậy, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ĐăkLăk khóa XIII (2005) đã đánh giá hiệu lực của chính quyền các cấp chưa cao và đề ra một trong các mục tiêu quan trọng trong những năm tiếp theo là nâng cao hiệu lực của chính quyền cơ sở.

Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của chính quyền cơ sở, đặc biệt là chính quyền cơ sở ở những nơi tập trung đồng bào dân tộc thiểu số là cần thiết để góp phần nhận diện thực trạng và những vấn đề mà bộ máy chính quyền đang phải trải nghiệm. Đã có nhiều công trình nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của chính quyền cơ sở dưới nhãn quan Triết học, Chính trị học, Văn hóa học.. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu xã hội học nào đi sâu tìm hiểu những nguyên nhân dẫn tới tình trạng kém hiệu lực của chính quyền cơ sở. Do đó, nghiên cứu về vấn đề này còn bỏ ngỏ, luận cứ khoa học còn ít.

Chúng tôi chọn xã Eatrul – huyện Krông Bông – tỉnh ĐăkLăk là địa bàn nghiên cứu. Là một địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống và không có nhiều khác biệt so với các xã khác trên địa bàn tỉnh ĐăkLăk. Trong tình trạng chung, công tác quản lý, điều hành của chính quyền địa phương đang tồn tại nhiều bất cập. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng ủy xã Eatrul năm 2007 đã thừa nhận tình trạng kém hiệu lực của chính quyền xã [1]. Vậy, thực trạng kém hiệu lực của chính quyền xã như thế nào? Những nguyên nhân nào dẫn tới tình trạng kém hiệu lực của chính quyền xã Eatrul? Giải pháp nào để nâng cao hiệu lực của chính quyền xã?

Để trả lời các câu hỏi trên, chúng tôi nhận thấy, việc nghiên cứu những nguyên nhân dẫn tới tình trạng kém hiệu lực của chính quyền cơ sở nhằm đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu lực của chính quyền cơ sở hiện nay là cần thiết. Do đó, chúng tôi chọn đề tài “Tìm hiểu những nguyên nhân dẫn tới tình trạng kém hiệu lực của chính quyền cơ sở; Nghiên cứu trường hợp xã Eatrul – huyện Krông Bông – tỉnh ĐăkLăk” làm luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Lịch sử về tình hình nghiên cứu

Chính quyền cơ sở là cấp chính quyền thấp nhất nhưng lại có vị trí và vai trò quan trọng bởi chính quyền cơ sở là nơi trực tiếp tổ chức vận động nhân dân thực hiện các đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước trên mọi lĩnh vực. Đồng thời chính quyền cơ sở cũng là nơi gần dân nhất, có trách nhiệm chăm lo phát triển mọi mặt đời sống vật chất, tinh thần và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương.

Những năm trước đây, so với chính quyền nhà nước ở trung ương, việc nghiên cứu chính quyền địa phương chưa được quan tâm nghiên cứu bởi nhiều lý do khác nhau. Thứ nhất, chính quyền địa phương những năm trước đây phụ thuộc vào chính quyền trung ương, cách thức tổ chức và hoạt động nhiều khi mô phỏng lại chính quyền trung ương. Thứ hai, trong những thế kỷ trước đây, nhất là ở thế kỷ XX, vấn đề tổ chức chính quyền địa phương không thể nổi cộm bằng vấn đề trung ương, bởi lẽ khi đó những vấn đề quốc gia, vấn đề dân tộc được đặt lên hàng đầu. Nhưng bước sang thế kỷ XXI, cùng với ảnh hưởng của toàn cầu hóa và khu vực hóa, vấn đề địa phương nổi lên một cách cấp thiết. Tập phúc trình nghiên cứu “Hiện đại hóa quản lý Nhà nước ở Việt Nam” của UNDP được công bố trong Hội nghị Nhóm tư vấn tài trợ tháng 12 năm 2001 Chương trình phát triển Liên hiệp quốc – Việt Nam đã diễn giải, tóm tắt các văn bản có tính chiến lược hiện có của Chính phủ, các báo cáo, thông tin, từ đó cung cấp một cái nhìn tổng quan về công cuộc chuyển đổi đang diễn ra trong lĩnh vực quản lý Nhà nước. Trong tài liệu này, cải cách hành chính được xem như một trong ba cải cách chính mà Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực thực hiện [28]. Theo đó, cải cách chính quyền cơ sở như là phần tất yếu và quan trọng của công cuộc cải cách hành chính hiện nay.

Phân tích lịch sử về tình hình nghiên cứu cho chúng tôi kết quả như sau:

*1. Về cách tiếp cận:

Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy đã có một số công trình nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của chính quyền cơ sở dưới nhãn quan Triết học, Quản lý nhà nước, Luật học… Nhưng có thể khẳng định chủ đề chính quyền cấp xã cho đến nay được các nhà khoa học quản lý hành chính quan tâm nhiều hơn cả. Kết quả phân tích lịch sử về tình hình nghiên cứu của chúng tôi cho thấy chưa có nghiên cứu xã hội học về những nguyên nhân dẫn tới tình trạng kém hiệu lực của chính quyền cơ sở. Điều đó khiến chúng tôi gặp khó khăn hơn trong quá trình thực hiện luận văn.

*2. Về nội dung nghiên cứu:

Chúng tôi chưa thấy đề tài tìm hiểu những nguyên nhân dẫn tới tình trạng kém hiệu lực của chính quyền cơ sở, đặc biệt ở những nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Các nghiên cứu trước đây thường theo hai hướng: 1) Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền cơ sở; 2) Nghiên cứu một trong nhiều yếu tố ảnh hưởng chất lượng hoạt động của chính quyền cơ sở.

Những nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền cơ sở đã chỉ ra được thực trạng chất lượng hoạt động của bộ máy chính quyền cơ sở hiện nay.

Kết quả khảo sát 20 xã của 5 tỉnh Tây Nguyên cho thấy thực trạng chất lượng cán bộ, công chức xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Về chính trị, 58, 72 % cán bộ công chức cấp xã được hỏi chưa được đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị. Điều này đã làm hạn chế về nhận thức cũng như công tác tuyên truyền vận động quần chúng. Về kiến thức quản lý hành chính nhà nước, căn cứ tiêu chuẩn đối với cán bộ, công chức cấp xã được quy định tại quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16-1-2004 của Bộ Nội vụ thì cán bộ, công chức cấp xã phải qua lớp bồi dưỡng quản lý hành chính nhà nước từ sơ cấp trở lên. Kết quả khảo sát cho thấy, chỉ có 7,2% cán bộ, công chức xã đã qua đào tạo trung cấp, so với tiêu chuẩn đề ra có trên 90% cán bộ, công chức xã vùng đồng bào dân tộc chưa được trang bị kiến thức quản lý hành chính nhà nước. Có 3,4% cán bộ, công chức xã có trình độ văn hóa tiểu học, 37,4% cán bộ, công chức xã có trình độ văn hóa trung học cơ sở và ở bậc trung học phổ thông là 56,2%. Trình độ văn hóa trung học phổ thông của Chủ tịch Hội đồng nhân dân là 55%, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân là 45%; Chủ tịch Ủy ban nhân dân 50%; phó chủ tịch Ủy ban nhân dân 50%. Như vậy, so với tiêu chuẩn thì có tới 50% cán bộ chủ chốt xã vùng đồng bào dân tộc chưa đạt chuẩn về văn hóa. Về chuyên môn, có 64, 68% cán bộ, công chức cấp xã chưa qua đào tạo, trong đó cán bộ chủ chốt chưa qua đào tạo chiếm 76,67%, công chức chưa qua đào tạo là 59,31% [Trần Thái Học, 2008].

Theo đánh giá của Hồ Tấn Sáng [2007], thực trạng yếu kém của chính quyền cơ sở hiện nay biểu hiện ở:

Hội đồng nhân dân phần nhiều hoạt động có tính hình thức, chưa hội đủ điều kiện, môi trường để thực hiện vai trò, trách nhiệm của một cơ quan đại diện quyền lực của nhân dân.

Hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội còn nhiều yếu kém. Khả năng chủ động trong việc xử lý các tình huống, nhất là các tình huống nhạy cảm, phức tạp rất hạn chế, thường phải trông chờ sự chỉ đạo, làm thay của cấp trên.

Cán bộ cơ sở không thiếu về số lượng, nhưng năng lực, tâm huyết còn chưa tương thích, tạo cảm giác vừa thiếu, vừa thừa. Trong khi đó nguồn bổ sung theo tiêu chuẩn lại khan hiếm.

Cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện làm việc của chính quyền cơ sở nhìn chung quá thiếu thốn, sơ sài, chưa bảo đảm ở mức tối thiểu để một bộ máy công quyền hoạt động đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa, chính quy hóa công sở.

Vẫn có những biểu hiện tập trung, quan liêu, thậm chí đặc quyền, chuyên quyền, vi phạm các nguyên tắc của thể chế dân chủ; vi phạm pháp luật từ phía các cơ quan nhà nước, các tổ chức quyền lực cũng như từ phía nhân dân mà không được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh.

Nghiên cứu của Thái Vĩnh Thắng [2003] chỉ ra những tồn tại trong công tác quản lý ở xã, phường hiện nay:

Công tác dự toán chưa đảm bảo yêu cầu, còn thiếu căn cứ khoa học và hợp lí.

– Tình trạng chi vượt mức còn khá phổ biến, công tác thu thuế còn yếu kém để tỉ lệ thất thu thuế còn khá cao.

Việc quản lí sử dụng đất đai còn lỏng lẻo, còn để xảy ra tình trạng lấn chiếm, mua bán trái phép đất công, sử dụng sai mục đích quy định, chuyển đổi đất thổ canh sang thổ cư rất phổ biến.

Công tác quy hoạch đất đai và kiến trúc xây dựng chậm, thiếu đồng bộ và không nhất quán, chậm phổ biến rộng rãi cho nhân dân biết.

Chính quyền phường, xã nhiều lúc, nhiều nơi còn chưa phối hợp tốt với các cơ quan chức năng để phát hiện, xử lí những trường hợp sản xuất hàng giả, làm ăn phi pháp, trốn thuế, các tụ điểm ma tuý, cờ bạc, mại dâm.

Thủ tục hành chính còn rườm rà, gây phiền nhiễu cho nhân dân.

– Một số chính quyền cơ sở xã, phường còn thiếu tính chủ động, sáng tạo trong việc tiếp thu các kiến thức khoa học kĩ thuật và công nghệ mới trong việc phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật, trong việc hướng dẫn các công dân, tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong việc tiếp xúc, giải quyết các thủ tục, hành chính để được hưởng các lợi ích mà nền khoa học, kĩ thuật, công nghệ hiện đại có thể mang lại

Cũng theo nghiên cứu của Thái Vĩnh Thắng [2003], do trình độ văn hoá còn thấp, thiếu đào tạo chuyên môn về quản lí hành chính nên không ít cán bộ đã xử lí, giải quyết công việc, áp dụng pháp luật sai. Ở một số xã vùng sâu, vùng xa, cán bộ cấp xã còn áp dụng luật tục để giải quyết các vụ việc như tranh chấp đất đai, li hôn, tranh chấp dân sự, tự đặt ra các quy định xử phạt, quy định đóng góp của nhân dân và chi tiêu không đúng nguyên tắc, không phù hợp với quy định của pháp luật. Có nơi, ngay cả các tỉnh đồng bằng, trưởng công an xã tuỳ tiện không cho con em trong xã đi học, chủ tịch xã giải quyết li hôn, đặt ra lệnh nội bất xuất, ngoại bất nhập giữa làng này và làng khác sau 11 giờ đêm. Số liệu thống kê tại tỉnh DăkLăk trong nhiệm kì Hội đồng nhân dân năm 1999 – 2004 cho thấy trình độ của cán bộ chính quyền cấp xã như sau: Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn: Cấp tiểu học: 4,9%, cấp trung học cơ sở: 36%, cấp trung học phổ thông: 59,1%. Đối với chủ tịch Hội đồng nhân dân: Cấp tiểu học chiếm 5,5,%; cấp trung học cơ sở chiếm 47,0%; cấp trung học phổ thông chiếm 47,5%. Như vậy, cán bộ chủ chốt của chính quyền cấp xã ở DăkLăk chủ yếu có trình độ văn hóa ở bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông. Ở các xã vùng sâu, vùng xa, nơi 100% dân số là đồng bào dân tộc, trình độ văn hoá còn thấp hơn. Ví dụ, ở xã Eayông của huyện Krôngpak, Đắk Lắk có 2/3 cán bộ xã đạt trình độ trung học cơ sở, 1/3 cán bộ xã có trình độ văn hóa ở bậc tiểu học. Nghiên cứu cũng cho rằng cấp xã là nơi cần những cán bộ trẻ để tạo nguồn cho cán bộ chính quyền cấp trên, tốt nhất là ở độ tuổi từ 31 đến 40 nhưng tỉ lệ này hiện nay còn thấp, khó có thể tạo nguồn cho cán bộ chính quyền cấp trên. Điều này hình như là mâu thuẫn với tình trạng có hàng nghìn sinh viên đã tốt nghiệp đại học không có việc làm đang tìm việc ở thành phố.

Nghiên cứu “Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở” do TS. Trần Thị Hồng Thúy – Ths. Ngọ Văn Nhân chủ biên – Nxb Tư pháp – Hà nội 2004 đã nghiên cứu cơ chế tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở. Đề tài có phạm vi nghiên cứu là khảo sát trên địa bàn thành phố Hà Nội, điều tra bằng phương pháp Ankét với 304 cán bộ cơ sở và 906 người dân địa phương. Các tác giả đề xuất một số giải pháp phát huy vai trò của dư luận xã hội trong việc nâng cao ý thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, từ đó nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ cơ sở, đồng thời nâng cao hiệu lực của bộ máy chính quyền. Có thể khẳng định, nếu dư luận xã hội được sử dụng như là một cơ chế điều chỉnh ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở thì đó là điều kiện quan trọng để nâng cao hiệu lực của chính quyền cơ sở. Nhưng giải pháp này thật khó thực hiện ở những nơi trình độ dân trí thấp như những vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Bên cạnh đó, chúng ta sẽ rất khó khăn khi muốn tiến hành nghiên cứu dư luận xã hội đối với hoạt động chuyên môn của cán bộ cấp cơ sở tại những vùng khó khăn này.

Luận án “Phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở ở Bà Rịa – Vũng Tàu hiện nay” của Nguyễn Hồng Lương; chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; cơ sở đào tạo: Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã luận giải đặc điểm, cấu trúc nhân tố chủ quan trong hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở với những yếu tố về phẩm chất, trình độ, năng lực nhận thức và bản thân sự hoạt động của các chủ thể bao gồm các tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên cùng năng lực thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Bằng cái nhìn triết học, luận án đã nêu lên 4 mâu thuẫn trong việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan của hệ thống chính trị cấp cơ sở ở Bà Rịa – Vũng Tàu : 1/ Mâu thuẫn giữa yêu cầu cao của nhiệm vụ giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá với năng lực trình độ đội ngũ cán bộ cơ sở còn nhiều hạn chế; 2/ Mâu thuẫn giữa yêu cầu, đòi hỏi về chất lượng đội ngũ cán bộ với công tác cán bộ cơ sở còn yếu kém; 3/ Mâu thuẫn giữa đòi hỏi cao của nhiệm vụ với chế độ đãi ngộ cán bộ cơ sở còn thấp; 4/ Mâu thuẫn giữa đòi hỏi về chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức với những yếu kém, bất cập về bộ máy và cơ chế vận hành. Giải quyết tốt 4 mâu thuẫn đã chỉ ra sẽ là điều kiện để nâng cao hiệu lực của chính quyền cơ sở.

Từ kết quả phân tích tài liệu, chúng tôi thấy những nghiên cứu trước đây về chính quyền cơ sở đều kết luận rằng hiệu lực của chính quyền cơ sở hiện nay còn yếu kém. Song chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu những nguyên nhân dẫn tới tình trạng yếu kém của chính quyền cơ sở.

Với cách tiếp cận xã hội học, chúng tôi không nghiên cứu tình trạng kém hiệu lực của chính quyền cơ sở nhằm mục đích “phê phán” mà cố gắng lý giải những nguyên nhân dẫn tới tình trạng yếu kém đó. Để đạt được mục tiêu cơ bản trên, chúng tôi sẽ tiếp cận bộ máy chính quyền xã với tư cách là một bộ máy hành chính, theo đó một bộ máy kém hiệu lực có thể sẽ do nguyên nhân từ phía cấu trúc (cơ cấu tổ chức bộ máy chưa phù hợp hoặc thiếu sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố cấu thành nên bộ máy cũng như sự không hoàn thành chức năng của từng yếu tố dẫn tới sự không hoàn thành chức năng của bộ máy); nguyên nhân từ phía đội ngũ cán bộ cơ sở (trình độ chuyên môn yếu kém, chế độ đãi ngộ không phù hợp, điều kiện nơi làm việc thiếu thốn khiến đội ngũ cán bộ cơ sở không thể hoàn thành vai trò xã hội dẫn tới sự trì trệ, yếu kém của cả bộ máy), có thể hệ thống văn bản pháp luật liên quan tới bộ máy chính quyền cơ sở chưa phù hợp khiến cho sự vận hành của bộ máy không thể diễn ra suôn sẻ được. Và có thể còn có nguyên nhân khác nữa là trong điều kiện kinh tế – xã hội thấp kém ở một số vùng nông thôn, đặc biệt ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, hàng loạt các điều kiện cần có để tương tác giữa đội ngũ cán bộ chính quyền với nhân dân không thể đạt được mức độ thích ứng cao. Ví dụ như trình độ dân trí thấp, đặc điểm tâm lý, sự phong phú đa dạng về văn hóa giữa các dân tộc, nguy cơ tiềm ẩn mất ổn định chính trị… trên địa bàn khảo sát có thể là những nguyên nhân dẫn tới quá trình tương tác giữa đội ngũ cán bộ cơ sở và quần chúng nhân dân diễn ra với mức độ thích ứng thấp, uy tín của chính quyền cơ sở vì vậy chưa cao và đó là biểu hiện của tình trạng kém hiệu lực.

3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Tìm hiểu thực trạng kém hiệu lực của chính quyền xã Eatrul huyện Krông Bông – tỉnh DăkLăk.

Eatrul. Phân tích các nguyên nhân dẫn tới tình trạng kém hiệu lực của chính quyền xã

– Từ những nghiên cứu trên, tác giả sẽ đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu lực của chính quyền cơ sở ở xã Eatrul. Xã Eatrul – huyện Krông Bông – tỉnh DăkLăk là một xã có những đặc điểm tương đối đại diện cho các xã vùng nông thôn của Tây Nguyên. Vì vậy, hy vọng những kết luận của luận văn có thể áp dụng cho các xã khác trên địa bàn Tây Nguyên.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu

Các nguyên nhân dẫn tới tình trạng kém hiệu lực của chính quyền cơ sở.

Khách thể nghiên cứu

Bộ máy chính quyền xã, nhân dân địa phương xã Eatrul.

Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi không gian: Xã Eatrul – huyện Krông Bông – tỉnh ĐăkLăk.

Phạm vi thời gian: Từ tháng 8/2007 đến tháng 8/2008

5. Phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính làm phương pháp thu thập thông tin. Đây là phương pháp phù hợp để tìm hiểu thông tin sâu nhằm phát hiện những nguyên nhân dẫn tới tình trạng kém hiệu lực của chính quyền xã Eatrul hiện nay. Chúng tôi cho rằng, trong trường hợp này, phương pháp nghiên cứu định lượng không phù hợp bởi trình độ dân trí thấp gây khó khăn cho việc điều tra bằng bảng hỏi. Thêm nữa, đề tài cần thu thập nhiều thông tin liên quan tới ý kiến và thái độ của đội ngũ cán bộ xã cũng như của quần chúng nhân dân về bộ máy chính quyền xã, nếu điều tra bằng bảng hỏi, rất có thể sẽ không thu được những thông tin khách quan. Vì vậy, phỏng vấn sâu được chọn là phương pháp thu thập thông tin chủ yếu giúp chúng tôi có được những thông tin sâu, khách quan và chân thực.

*. Phân tích tài liệu:

– Các công trình, đề tài nghiên cứu, sách, tạp chí.. có liên quan đến đề tài của luận văn.

– Tài liệu do địa phương cung cấp.

*. Phỏng vấn sâu:

60 trường hợp:

– 32 người là cán bộ chính quyền, tổ chức cơ sở Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên ở địa phương;

28 người dân địa phương (là chủ hộ) trong đó có 18 người là dân tộc thiểu số và 10 người là dân tộc Kinh.

6. Giả thuyết nghiên cứu và các biến số

Các giả thuyết

Giả thuyết 1

Cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền cơ sở theo quy định không phù hợp với đặc thù điều kiện kinh tế – xã hội của xã Eatrul khiến chính quyền xã không thể thực hiện tốt các quyền hạn.

Giả thuyết 2

Hiện nay, một số văn bản, quy định pháp luật về chính quyền cơ sở chưa phù hợp với thực tiễn xã hội dẫn tới đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở gặp khó khăn trong quá trình thực hiện vai trò xã hội của mình.

Giả thuyết 3

Năng lực chuyên môn yếu, chế độ đãi ngộ thấp, điều kiện làm việc chưa đáp ứng được sự đòi hỏi của công việc là những nguyên nhân của tình trạng cán bộ chính quyền xã không hoàn thành tốt vai trò xã hội.

Dựa trên những giả thuyết trên, chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu nhằm tìm ra những căn cứ chứng minh những giả thuyết mà chúng tôi đã nêu ra có đúng với thực tế hay không?

Xác định biến số

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi xác định ba biến số:

Biển số độc lập:

+ Nhóm biến liên quan tới cơ cấu tổ chức của bộ máy chính quyền xã: Các bộ phận cấu thành nên bộ máy chính quyền xã; mối quan hệ giữa các bộ phận đó; mối quan hệ giữa chính quyền xã với chính quyền cấp trên; mối quan hệ giữa chính quyền xã với quần chúng nhân dân.

+ Văn bản pháp luật liên quan tới chính quyền cơ sở;

+ Nhóm biến liên quan tới đội ngũ cán bộ chính quyền xã: Trình độ học vấn; trình độ chuyên môn của cán bộ chính quyền xã; Kỹ năng giải quyết công việc; thói quen giải quyết công việc của cán bộ chính quyền xã; Chế độ đãi ngộ và điều kiện nơi làm việc của đội ngũ cán bộ chính quyền xã.

Biến số phụ thuộc: Tình trạng kém hiệu lực của chính quyền xã Eatrul.

+ Yếu kém trong việc sử dụng các quyền hạn, thẩm quyền, các phương pháp và công cụ pháp lý trong việc ra quyết định và tổ chức thực hiện:

+ Yếu kém trong việc ra quyết định và tổ chức thực hiện không hiệu quả:

Biến can thiệp:

+ Điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước.

+Điều kiện kinh tế xã hội văn hóa của địa phương

Khung phân tích

7. Nội dung nghiên cứu của đề tài

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận văn sẽ phải tiến hành khảo sát địa bàn xã Eatrul nhằm thực hiện các nội dung nghiên cứu sau:

Nhận diện thực trạng kém hiệu lực của chính quyền xã Eatrul huyện Krông Bông – tỉnh DăkLăk

Tìm hiểu những nguyên nhân dẫn tới tình trạng kém hiệu lực của chính quyền xã.

+ Nguyên nhân từ phía cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền cơ sở

+ Nguyên nhân từ phía văn bản pháp luật

+ Nguyên nhân từ phía đội ngũ cán bộ xã Eatrul

+ Nguyên nhân từ quá trình tương tác giữa chính quyền xã Eatrul với nhân dân.

8. Kết cấu của luận văn

Luận văn được kết cấu như sau:

PHẦN MỞ ĐẦU

Chương I. Cơ sở lý luận và phương pháp luận

Chương II. Những nguyên nhân dẫn tới tình trạng kém hiệu lực của chính quyền

xã Eatrul – huyện Krông Bông – tỉnh ĐăkLăk

2.1. Thực trạng kém hiệu lực của chính quyền xã Eatrul – huyện Krông Bông

tỉnh ĐăkLăk

2.1.1. Thực trạng việc sử dụng các quyền hạn, thẩm quyền, các phương pháp và công cụ pháp lý.

2.1.2. Thực trạng việc ra quyết định và tổ chức thực hiện

2.2. Những nguyên nhân dẫn tới tình trạng kém hiệu lực của chính quyền xã

Eatrul – huyện Krông Bông – tỉnh DăkLăk

2.2.1. Nguyên nhân từ phía cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền cơ sở

2.2.2. Nguyên nhân từ phía văn bản pháp luật

2.2.3. Nguyên nhân từ phía đội ngũ cán bộ xã Eatrul

2.2.4. Nguyên nhân từ quá trình tương tác giữa đội ngũ cán bộ xã Eatrul

với nhân dân

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Tải tài liệu

1.

Luận văn thạc sĩ Xã hội học: Tìm hiểu những nguyên nhân dẫn tới tình trạng kém hiệu lực của chính quyền cơ sở

.zip
677.51 KB

Có thể bạn quan tâm

Lưu tài liệu Tải tài liệu