Luận văn thạc sĩ Sinh học – Ứng dụng kỹ thuật thủy canh (Hydroponics) trồng một số rau theo mô hình gia đình tại địa bàn Đăk Lăk Lưu

Luận văn thạc sĩ Sinh học – Ứng dụng kỹ thuật thủy canh (Hydroponics) trồng một số rau theo mô hình gia đình tại địa bàn Đăk Lăk

Danh mục: , Người đăng: Văn Hải Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt Định dạng: , Lượt xem: 27 lượt Lượt tải: 0 lượt
Tài liệu, tư liệu này được sưu tầm từ nhiều nguồn và được chia sẻ lại với mục đích tham khảo, các bạn đọc nghiên cứu và muốn trích lục lại nội dung xin hãy liên hệ Tác giả, bản quyền và nội dung tài liệu thuộc về Tác Giả & Cơ sở Giáo dục, Xin cảm ơn !

Nội dung

ĐẶT VẤN ĐỀ

Nghề trồng rau ở nước ta đã ra đời từ xa xưa, trước cả nghề trồng lúa nước, Việt Nam chính là trung tâm khởi nguyên của nhiều loại rau trồng, nhất là các cây thuộc họ bầu bí. Song do chịu ảnh hưởng của một nền nông nghiệp lạc hậu và tự túc trong nhiều thế kỷ qua, cho nên sự phát triển nghề trồng rau ở nước ta kém xa so với trình độ canh tác của thế giới. Những năm gần đây mặc dù ngành trồng rau có khởi sắc, nhưng trên thực tế vẫn chưa theo kịp nhiều ngành khác trong sản xuất nông nghiệp. Trong đề án phát triển rau, quả và hoa, cây cảnh giai đoạn 1999 – 2000 do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, mục tiêu cho ngành sản xuất rau đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 3/9/1999 là “Đáp ứng nhu cầu rau xanh có chất lượng cao phục vụ cho tiêu dùng trong nước nhất là những vùng dân cư tập trung (đô thị, khu công nghiệp . . . ) và xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2010 đạt mức tiêu thụ bình quân đầu người là 85kg rau trên một năm, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 690 triệu USD”.[2]

Mặt khác tốc độ đô thị hóa ở nước ta trong những năm gần đây tăng khá nhanh, và đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Các nước đang phát triển như Việt Nam, Trung Quốc có khoảng hơn 30% tổng số dân cả nước sống ở khu vực đô thị. Theo một quy hoạch: đến năm 2010, tỷ lệ dân số đô thị ở Việt Nam sẽ đạt 56-60%, và đến năm 2020 sẽ đạt khoảng 80%, bằng các nước công nghiệp phát triển hiện nay như ở châu Âu, Mỹ, Australia… Đất nông nghiệp chỉ còn 20-30%, và tất nhiên đều là nông nghiệp đô thị. Vì vậy chiến lược phát triển đô thị bền vững gắn liền với phát triển nông nghiệp đô thị là xu hướng tất yếu. [3]

Nông nghiệp đô thị (NNĐT) không chỉ có ý nghĩa to lớn về xã hội và nhân văn, mà lợi ích kinh tế cũng khá lớn. Trên thế giới, gần một phần ba rau, quả, thịt, trứng cung ứng cho đô thị là từ NNĐT; có từ 25% đến 75% số gia đình ở thành phố tham gia NNĐT. Ở Moscow (CHLB Nga) có 65% số gia đình tham gia NNĐT, ở Berlin (Đức) có 80 nghìn mảnh vườn trồng rau ở đô thị; và hàng vạn cư dân ở New York (Mỹ) có vườn trồng rau trên sân thượng. Nhiều thành phố lớn thuộc Trung Quốc như Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu… NNĐT đã cung cấp đến 85% nhu cầu về rau xanh.

Ở Việt Nam, NNĐT bước đầu đã được nhiều thành phố đưa vào mục tiêu phát triển như một yếu tố quan trọng trong hệ thống cung cấp thực phẩm cho các vùng đô thị để đáp ứng quy mô của các thành phố ngày một tăng nhanh. Tuy nhiên, ở những thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ ChíMinh, Hải Phòng, Đà Nẵng và các khu đô thị lớn khác trên cả nước, hiện nay người tiêu dùng chủ yếu vẫn tiêu thụ rau không rõ nguồn gốc được vận chuyển vào từ các vùng sản xuất ngoài thành phố. Và thực tế là khó có thể kiểm soát được người trồng rau thực hiện việc vệ sinh an toàn thực phẩm như thế nào. Báo chí và các phương tiện thông tin liên tục phản ánh về những ca ngộ độc thực phẩm, về sự mất an toàn của các vùng sản xuất rau, về sự tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, nhiễm độc kim loại và nhiễm khuẩn…đặc biệt là các vùng sản xuất rau cung cấp cho đô thị

Theo thống kê của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), hằng năm trên thế giới có trên 40.000 người chết trong tổng số 2 triệu người ngộ độc rau. Tại VN, thống kê mới nhất của ngành y tế cho biết, trong vài năm gần đây, tính riêng số người ngộ độc thực phẩm phải nhập viện cấp cứu do nguồn rau, củ thiếu an toàn đã lên đến con số hơn 700 người.

Trong khi đó, người tiêu dùng ngày càng nhận thức rõ được tầm quan trọng của rau xanh trong bữa ăn hàng ngày, họ ăn nhiều rau hơn, và nhu cầu về rau an toàn cũng lớn hơn. Nhưng các vùng sản xuất rau lại chưa xây dựng được lòng tin cho người tiêu dùng, mặc dù họ sẵn sàng trả giá cao gấp nhiều lần cho một sản phẩm rau an toàn.

Theo số liệu của Chi cục Bảo vệ thực vật TPHCM, vào cuối năm 2007, tỉ lệ sản xuất rau an toàn (RAT) không thật sự an toàn là một con số gây “sốc” cho không ít người tiêu dùng: 34/37 mẫu là rau được cho là rau sạch lại có chứa dư lượng thuốc trừ sâu vượt quy định. Còn theo nhận định của ngành y tế, dù tình hình giờ đây đã được cải thiện song RAT đến tay người tiêu dùng vẫn chưa thật an toàn.

Vậy tại sao không gây dựng lòng tin cho người tiêu dùng bằng cách cho họ dùng chính sản phẩm mà họ tự tay làm ra.

Vậy còn với những người sống ở thành phố? Với diện tích chật hẹp của căn nhà nội thành, họ có thể tự sản xuất được rau xanh cho bữa ăn của gia đình mình không? Điều đó là hoàn toàn có thể thực hiện được, nếu như sân nhà, ban công hay sân thượng của họ có một chút ánh sáng tự nhiên và bỏ ra một ít chi phí cho hệ thống cộng với một chút công chăm sóc.

Để góp phần thực hiện được điều đó, đã có nhiều đề án được nghiên cứu để trồng rau trong nhà, trên ban công, sân thượng như : ứng dụng kỹ thuật thủy canh bằng hộp xốp, kỹ thuật khí canh, kỹ thuật màng dinh dưỡng NFT và kỹ thuật dòng chảy sâu DFT vào trồng rau an toàn tại nhà trong đô thị. Tuy nhiên những phương pháp nói trên yêu cầu kỹ thuật tương đối phức tạp, tỷ mỷ, và chăm sóc khó nên chưa được phổ biến.

Đứng trước thực trạng này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:

“Ứng dụng kỹ thuật thủy canh (Hydroponics) trồng một số rau theo mô hình gia đình tại địa bàn Đăk Lăk” với mục đích của đề tài là:

Góp phần cải tiến và phổ biến các mô hình trồng rau thủy canh tại nhà trong đô thị. Đây sẽ là một kỹ thuật sản xuất rau an toàn theo phương pháp thủy canh nhưng đơn giản, dễ làm và đảm bảo cung cấp đủ thức ăn xanh cho bữa ăn gia đình, đặc biệt là các gia đình ở đô thị với diện tích từ 3 – 4 m². Đồng thời triển khai các mô hình trồng rau theo phương pháp này sẽ làm tăng thêm thảm xanh cho môi trường đô thị. Theo tính toán của các nhà khoa học nếu mỗi hộ chỉ “trồng” 3 đến 4 m², chúng ta sẽ có thêm khoảng 1 triệu m² thảm xanh luân chuyển nằm tại các ban công, sân thượng, sân nhà . Phương pháp này còn tận dụng được không gian, diện tích dư thừa nơi ban công, sân thượng, sân nhà.

Mặt khác nếu ở nông thôn nếu áp dụng phương pháp này ta sẽ tận dụng được các phế phẩm nông nghiệp (trấu, vỏ cà phê, mùn cưa …) để làm giá thể trồng theo phương pháp thủy canh và sau khi sử dụng thì giá thể lại được ủ làm phân bón cho cây trồng khác rất tốt.

Hơn nữa, trồng rau theo phương pháp này còn là một thú tiêu khiển cũng như chăm sóc cây hoa cảnh và là cách thư giãn của người dân đô thị có tốc độ làm việc và nhịp sống khẩn trương, căng thẳng như hiện nay.

Giới hạn của đề tài:

Chúng tôi ý thức rằng áp dụng phương pháp thủy canh để trồng rau trên giá thể là một phương pháp mới. Với khả năng và giới hạn thời gian của đề tài chúng tôi chỉ tiến hành trồng thí nghiệm ít đối tượng với các điều kiện tự nhiên tại địa bàn huyện Krông Ana tỉnh Đăk Lăk với diện tích nhỏ qui mô gia đình và mới thử nghiệm một loại môi trường dinh dưỡng tự pha, và chỉ tiến hành trồng trên một loại giá thể là trấu hun.

Tải tài liệu

1.

Luận văn thạc sĩ Sinh học – Ứng dụng kỹ thuật thủy canh (Hydroponics) trồng một số rau theo mô hình gia đình tại địa bàn Đăk Lăk

.zip
8.23 MB

Có thể bạn quan tâm

Lưu tài liệu Tải tài liệu