MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề.
Ngô được con người coi là một trong ba cây lương thực quan trọng trên thế giới. Ngô được sử dụng với 3 mục đích chính là lương thực cho người, thức ăn cho gia súc và nguyên liệu cho nhiều sản phẩm công nghiệp. Ngày nay, đứng trước tình hình ngày càng cạn kiệt các nguồn nhiên liệu hóa thạch trong khi nhu cầu sử dụng năng lượng càng tăng thì việc sản xuất ngô dùng để chế biến năng lượng sinh học đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới.
Cây ngô không chỉ biết đến bởi giá trị kinh tế và giá trị dinh dưỡng cao mà còn là một cây trồng quan trọng, có khả năng khai thác tốt trên các loại đất khó khăn, trên các vùng đồi núi, vùng khô hạn. Ngành sản xuất ngô thế giới tăng liên tục từ đầu thế kỷ XX đến nay. Theo số liệu của tổ chức Nông – Lương quốc tế (FAO), năm 2008 diện tích ngô trên toàn thế giới là 161,0 triệu ha, năng suất 51,1 tạ/ha và sản lượng đạt kỷ lục 822,7 triệu tấn [12].
Ở Việt Nam, ngô là loại cây lương thực quan trọng đứng thứ hai sau lúa. Ngô là thức ăn chính đối với các loại gia cầm, vật nuôi và là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều nông dân. Trong những năm gần đây, diện tích, năng suất và sản lượng của cây ngô trên cả nước nói chung và các tỉnh Tây nguyên nói riêng đã không ngừng gia tăng bởi vì cây ngô có lợi thế là cây ngắn ngày, kỹ thuật trồng chăm sóc đơn giản, đầu tư ít, thị trường tiêu thụ mạnh và cho hiệu quả kinh tế khá cao. Trong các loại ngô, ngô lai được trồng phổ biến nhất, với hơn một triệu ha chiếm 70% diện tích trồng ngô của cả nước, nhưng sản lượng bình quân chỉ đạt khoảng 3,5 triệu tấn/năm, không đủ cung ứng cho nhu cầu trong nước nên Việt Nam vẫn còn nhập thêm ngô từ nước ngoài. Tỷ trọng chăn nuôi ngày càng phát triển, nhu cầu sử dụng ngô làm thức ăn chăn nuôi ngày càng cao. Do đó, rất cần mở rộng diện tích, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế của cây ngô lai [41].
Vùng Tây Nguyên nói chung và Đăk Lăk nói riêng có hai mùa mưa, khô rõ rệt. Tổng lượng mưa khá cao, từ 1500-1800 mm/năm tùy tiểu vùng. Tuy vậy, mưa phân bố không đều trong năm, chủ yếu phân bố trong các tháng mùa hè, các tháng còn lại lượng mưa không đáng kể, do vậy thời vụ các loại cây ngắn ngày nhờ nước trời được bố trí 2 vụ: vụ hè thu và vụ thu đông trong khoảng từ tháng 5 đến tháng 10.
Những năm gần đây, thời tiết biến đổi theo chiều hướng thất thường và bất thuận cho việc gieo trồng cây ngắn ngày, mưa đến trễ và không đều vào đầu mùa mưa làm thời vụ gieo trồng chậm lại, hạn hán trong lúc gieo trồng vụ 2 hoặc mưa chấm dứt sớm vào tháng 10 đã gây không ít khó khăn cho việc bố trí cơ cấu cây trồng vụ 2. Có thể nói thiếu nước đối với cây trồng do ảnh hưởng của thời tiết là yếu tố giới hạn năng suất các loại cây trồng ở Tây nguyên trong đó có cây ngô.
Theo một số nghiên cứu cho thấy, đất Tây Nguyên có hàm lượng kali thấp[3],[21], đặc biệt ở vụ 2 trong tháng 7, 8, 9 lượng mưa nhiều nên hiện tượng rữa trôi kali càng mạnh. Phần lớn diện tích ngô vụ 2 Tây Nguyên trồng nhờ vào nước trời. Lượng mưa bất thường và hạn hán ở cuối vụ sẽ làm cho ngô giảm năng suất và kém chất lượng. Tăng khả năng chịu hạn cho cây ngô để giữ vững năng suất có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với ngành nông nghiệp nước ta, khi môi trường trái đất vẫn tiếp tục thay đổi trước hiện tượng ấm lên toàn cầu. Trong điều kiện hạn hán thường xuyên xảy ra như vậy, tình trạng dinh dưỡng kali thích hợp sẽ giúp cây tăng cường khả năng chống hạn, sử dụng nước có hiệu quả và giữ vững năng suất. Xuất phát từ ý tưởng đó, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Tìm hiểu ảnh hưởng của liều lượng và thời điểm bón phân kali đến khả năng chịu hạn cho giống ngô CP 888 tại xã Ea phê – Huyện Krông pắc – Đăk Lăk“.
2. Mục tiêu của đề tài
Tìm ra các liều lượng và thời điểm bón phân kali cho cây ngô, nhằm tăng khả năng chịu hạn và tăng hiệu quả kinh tế. Từ đó kéo dài thời gian sản xuất vụ 2 trong mùa mưa.
3. Giới hạn của đề tài
Do thời gian có hạn nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu trên một loại đất với giống ngô lai là CP-888.
Đề tài được thực hiện trên vụ 2 (vụ thu đông) năm 2009 tại xã Ea phê -Huyện Krông Pắc – Đăk Lăk.
4. Ý nghĩa khoa học
– Kết quả của đề tài sẽ cung cấp những dữ liệu khoa học về ảnh hưởng của liều lượng và các thời điểm bón phân kali nhằm tăng khả năng chịu hạn và nâng cao năng suất của cây ngô nói riêng và một số cây trồng khác nói chung.
– Khẳng định vai trò của kali đối với cây ngô trong việc nâng cao khả năng chịu hạn.
– Mở ra một hướng kéo dài thời vụ trồng ngô hoặc mở rộng diện tích ngôvụ hai.
5. Ý nghĩa thực tiễn
– Giải quyết được vấn đề năng suất cho cây ngô vụ 2, mang lại hiệu quả kinh tế cho người dân tại địa phương.
– Nâng cao năng suất của cây ngô, cho phép mở rộng cây ngô vụ 2.
– Khẳng định vai trò của phân kali đối với khả năng chống chịu hạn và nâng cao năng suất.