Luận văn thạc sĩ Nông nghiệp: Xác định lượng co2 hấp thụ của rừng lồ ô (Bambusa procure A.Chev et A.Cam) vùng Tây Nguyên Lưu

Luận văn thạc sĩ Nông nghiệp: Xác định lượng co2 hấp thụ của rừng lồ ô (Bambusa procure A.Chev et A.Cam) vùng Tây Nguyên

Danh mục: , Người đăng: Văn Hải Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt Định dạng: , Lượt xem: 13 lượt Lượt tải: 0 lượt
Tài liệu, tư liệu này được sưu tầm từ nhiều nguồn và được chia sẻ lại với mục đích tham khảo, các bạn đọc nghiên cứu và muốn trích lục lại nội dung xin hãy liên hệ Tác giả, bản quyền và nội dung tài liệu thuộc về Tác Giả & Cơ sở Giáo dục, Xin cảm ơn !

Nội dung

ĐẶT VẤN ĐỀ

Sự phụ thuộc của chúng ta ngày càng lớn vào nguồn năng lượng có nguồn gốc carbon đã tạo ra một lượng tích luỹ khí nhà kính đáng kể trong bầu khíquyển. Phá rừng để lấy đất chăn nuôi hay trồng những loại cây thu lời, lấy than củi, những thói quen đó đã không chỉ làm tăng một lượng lớn CO₂ phát thải mà còn phá huỷ một nguồn tài nguyên rừng quý giá có khả năng hấp thụ carbon khíquyền, tiếp tục góp phần vào biến đổi khí hậu.

Các nhà khoa học đã dự báo rằng đến năm 2050, nhiệt độ trái đất sẽ tăng lên từ 1,8 – 4°C nữa và mực nước biển có thể sẽ dâng cao 1,5 – 2 m do hiệu ứng nhà kính. Hiệu ứng nhà kính là hiện tượng các chất khí nhà kính (bao gồm: Dioxyt carbon (CO2), methane (CH4), các oxyt nito, ozon (O3), chloroflurocarbon (CFC), và hơi nước trong khí quyền đã ngăn chặn quá trình thoát nhiệt từ trái đất làm cho nhiệt độ khí quyển tăng lên. Trong nhóm khí đó, CO2 phong phú và phổ biến, gây tác động biến đổi khí hậu lớn nhất.

Theo dự báo, đến giữa thế kỷ 21 hàm lượng dioxyt carbon (CO2) trong khíquyền sẽ tăng gấp đôi so với hiện nay. Nguồn phát thải CO₂ lớn nhất là nhiên liệu dầu mỏ, than đá, cùng các loại nhiên liệu hữu cơ khác bị đốt cháy trong sửdụng nguồn nguyên liệu này lên tới 5,4 tỷ tấn/năm. Nạn cháy rừng, mất rừng, chủ yếu là ở vùng nhiệt đới tham gia vào phát thải 1,6 tỷ tấn CO2/năm. Ngoài nguồn phát thải lớn đó còn có những nguồn phát thải khí nhà kính như đầm lầy, đất nông nghiệp, chất thải sinh hoạt, sự phân giải của các chất hữu cơ… tuy nhỏ nhưng ở diện rộng đã làm cho hàm lượng dioxyt carbon trong khí quyển tăng lên 3000 triệu tấn/năm.

Phát thải khí nhà kính xảy ra trên Trái Đất là một quá trình tự nhiên, trước đây do dân số ít, công nghiệp chưa phát triển, mức độ sử dụng nhiên liệu chưa cao, rừng còn nhiều, cân bằng giữa phát thải và hấp thụ CO2 được duy trì, không xảy ra hiệu ứng nhà kính. Rừng và cây xanh nói chung có vai trò rất quan trọng trong sự điều tiết hàm lượng CO2 được ví như bể hấp thụ loại khí này.

Khi một diện tích rừng bị mất thảm thực vật thì tác hại xảy ra trên hai khía cạnh: Mất khả năng hấp thụ dioxyt carbon và sinh khối bị phân giải là nguồn phát thải khí nhà kính. Khả năng hấp thụ dioxyt carbon hay phát thải khí nhà kính phụ thuộc chủ yếu vào thảm thực vật rừng.

Các nhà khoa học đã chỉ ra rằng, ngăn chặn mất rừng và suy thoái rừng sẽ là một biện pháp bảo vệ khí hậu trái đất hiệu quả và tương đối rẻ tiền hơn so với các giải pháp khác. Trong bối cảnh đó, REDD ra đời như là một giải pháp hiệu quả nhằm hạn chế tác động của biến đổi khí hậu cũng như tạo sinh kế cho người dân nghèo bên cạnh những nỗ lực thích nghi, phòng chống biến đổi khí hậu.

REDD là tên viết tắt của cụm từ tiếng Anh – Reducing Emission from Deforestation and Forest Degradation in Developing Countries – Nghĩa là Giảm phát thải khí nhà kính do mất rừng và suy thoái rừng ở các nước đang phát triển. Đây là sáng kiến được đưa ra tại Hội nghị lần thứ 11 (COP11) các bên tham gia Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) được tổ chức tại thành phố Monal, Canada năm 2005.

Sáng kiến này xuất phát từ thực tế tình trạng mất rừng và suy thoái rừng đang đóng góp một tỉ lệ lớn, khoảng 15 – 20% tổng lượng khí nhà kính do các hoạt động của con người gây ra trên phạm vi toàn cầu. Nói cách khác, đây là một nguồn phát thải khí nhà kính đáng kể góp phần làm biến đổi khí hậu. Tình trạng này xảy ra chủ yếu ở các nước đang phát triển ở vùng nhiệt đới.

Tại Hội nghị lần thứ 13 (COP13) diễn ra tại Bali, Indonesia vào tháng 12/2007, các bên đã thông qua Kế hoạch Hành động Bali (Bali Action Plan) trong đó có đề xuất lộ trình xây dựng và đưa REDD trở thành một cơ chế chính thức thuộc hệ thống các biện pháp hạn chế biến đổi khí hậu trong tương lai, đặc biệt là sau khi giai đoạn cam kết đầu tiên của Nghị định thư Kyoto hết hiệu lực vào năm 2012. Hội nghị kêu gọi các bên tiếp tục nghiên cứu, thử nghiệm REDD và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn làm cơ sở để Hội nghị lần thứ 15 (COP15) sẽ được tổ chức tại Copenhagen, Đan Mạch vào tháng 12 năm 2009 xem xét, quyết định. Cho đến nay các cơ sở về khoa học về REDD, các chương trình thí điểm quốc gia, các dự án REDD đã bắt đầu khởi động ở nhiều quốc gia ở Châu Á, Nam Mỹ; và cộng đồng khoa học lâm nghiệp và môi trường toàn cầu đang chờ quyết định cuối cùng để thực hiện chỉ trả REDD ở COP17 sẽ diễn ra ở Nam Phi vào tháng 11 năm 2011.

Khi trở thành một cơ chế tài chính chính thức trong các thỏa thuận quốc tế thì trước hết REDD sẽ góp phần làm hạn chế mất và suy thoái rừng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn cầu. Bên cạnh đó, thực hiện REDD cũng đồng nghĩa với việc rừng được quản lý và sử dụng bền vững, đa dạng sinh học và các dịch vụ môi trường của rừng được bảo tồn, góp phần cung cấp gỗ và các lâm sản ngoài gỗ, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và xóa đói giảm nghèo tại các nước đang phát triển có diện tích rừng tự nhiên lớn. Theo đó các nước phát triển sẽ đáp ứng một số mục tiêu giảm phát thải của nước họ bằng cách mua các tín dụng carbon của các nước đang phát triển từ những cánh rừng hấp thụ CO2.

Đối với Việt Nam, sự biến đổi khí hậu đang dần có những tác động mạnh mẽ. Theo tính toán của các nhà khoa học, cứ một thập kỷ, nhiệt độ trung bình tại Việt Nam tăng 0,1 độ C. Ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, mực nước dự kiến sẽ tăng khoảng 33 cm đến năm 2050 và 1 m đến năm 2100. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng triệu người dân tại khu vực này [9], [1111], [14], [1515].

Trước bối cảnh đó, để tham gia vào chương trình giảm phát thải từ suy thoái và mất rừng (REDD), làm cơ sở chi trả dịch vụ môi trường, Việt Nam cần xác định được lượng CO2 hấp thụ trong các kiểu rừng khác nhau ở Việt Nam. Trong đó có kiểu rừng lồ ô, một kiểu rừng có diện tích đáng kể trong hệ sinh thái rừng tự nhiên ở Việt Nam.

Rừng lồ ô ngoài vai trò cung cấp lâm sản ngoài gỗ (như: măng, nguyên liệu sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ,…) còn có vai trò điều hoà khí hậu, bảo vệ môi trường sinh thái, đặc biệt lồ ô có khả năng thích nghi cao ở những nơi có điều kiện sinh thái khắt nghiệt như: đất bỏ hoá sau canh tác nương rẫy, đất cát ven sông, suối,… nên có vai trò rất lớn trong việc bảo vệ đất, điều tiết nguồn nước,… Tuy nhiên, hiện nay rừng lồ ô vẫn chưa được quan tâm nhiều, nhiều diện tích rừng này đang bị chặt phá, chuyển đổi sang canh tác nông nghiệp, điều này làm mất đi nguồn tài nguyên quý giá, đồng thời làm mất đi khả năng phòng hộ môi trường và góp phần đáng kể trong phát thải CO2 gây hiệu ứng nhà kính.

Nhằm tạo cơ sở cho việc chi trả phí dịch vụ môi trường trong tham gia chương trình REDD từ việc quản lý bảo vệ các diện tích rừng lồ ô, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Xác định lượng CO2 hấp thụ của rừng lồ ô vùng Tây Nguyên“.

Tải tài liệu

1.

Luận văn thạc sĩ Nông nghiệp: Xác định lượng co2 hấp thụ của rừng lồ ô (Bambusa procure A.Chev et A.Cam) vùng Tây Nguyên

.zip
2.56 MB

Có thể bạn quan tâm

Lưu tài liệu Tải tài liệu