MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Việt Nam là một nước nông nghiệp, bên cạnh phát triển các loại cây lương thực, thực phẩm thì cây công nghiệp cũng là một loại cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nền kinh tế quốc dân. Ngoài các loại cây công nghiệp đã được biết đến như: cà phê, cao su… được trồng phổ biến trong nông dân, thì cây ca cao đã và đang được quan tâm.
Ca cao là cây công nghiệp nhiệt đới, thích hợp với nhiều loại đất khác nhau, không đòi hỏi đầu tư quá cao, đặc biệt là nước tưới. Là loại cây đã được biết đến từ lâu đời bởi những người thổ dân da Đỏ. Ca cao có nguyên sản từ vùng Nam Mỹ, hạ lưu sông Amazon, hiện nay được trồng ở nhiều nước trên thế giới như: Bờ Biển Ngà, Indonesia, Brazil, Ecuador…
Sản phẩm của cây ca cao là những mặt hàng nổi tiếng, có giá trị kinh tế cao. Nước uống sản xuất từ cây ca cao là một trong ba thức uống có giá trị mà ngày càng được con người sử dụng rộng rãi. Chính vì vậy mà cây ca cao được trồng nhiều nơi trên thế giới.
Từ Nam Mỹ, cây ca cao phát triển sang các nước khác ở Trung và Nam Mỹ và đến cuối thế kỷ 16 lưu hành rộng rãi ở Châu Mỹ. Từ thế kỷ 16, ca cao bắt đầu phát triển rộng rãi sang các nước trên thế giới, trước hết là các nước Nam Mỹ và vùng biển Carible, sau đó ca cao vượt biển Thái Bình Dương và được trồng ở Philippin vào thế kỷ 17, tiếp tục mở rộng sang Ấn Độ và Srilanka vài chục năm sau. Cuối thế kỷ 19 ca cao mới được trồng ở Tây Phi, trước hết là Ghana và Nigieria, ở đây ca cao phát triển rất mạnh trên thị trường châu Âu. Năm 1900 châu Phi chiếm 17% tổng sản lượng toàn thế giới nhưng đến năm 1996 đã chiếm 73% tổng sản lượng. Từ năm 1985 trở lại đây các nước châu Á bắt đầu phát triển cây ca cao, trước hết là Malaysia, Indonesia, Ấn Độ…
Ở Việt Nam, cây ca cao đã được du nhập năm 1878, lần đầu tiên trồng ở Bến Tre và sau đó được trồng rộng rãi ở nhiều vùng. Năm 1965 bắt đầu có chương trình trồng khảo nghiệm cây ca cao tại các tỉnh Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Tại Buôn Ma Thuột, khoảng 20ha ca cao được trồng xen với vườn cây cao su, năm 1985 vẫn còn những cây cho năng suất từ 150-200 quả/năm. Tuy nhiên, sự phát triển của cây ca cao trong giai đoạn này trải qua rất nhiều khó khăn và thử thách do không có thị trường tiêu thụ cũng như người dân chưa được hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc nên diện tích cây ca cao ngày càng thu hẹp và có thời gian người trồng ca cao đã phải chặt bỏ để thay vào những cây có giá trị hơn.
Năm 1996, khi nhà máy Chocolate Quảng Ngãi đi vào hoạt động thì việc trồng ca cao trong nước bắt đầu có những bước chuyển mới. Năm 1997, Hội thảo chuyên đề về cây ca cao đã khẳng định cây ca cao là cây công nghiệp dài ngày có thể sinh trưởng và phát triển ở một số vùng hiện có quỹ đất đáng kể như Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long.
Tháng 9 năm 1998, Chính phủ đã phê duyệt Dự án trồng cây ca cao đến năm 2010 là 100.000 ha tập trung 4 vùng trọng điểm: Tây Nguyên (28.500 ha), miền Đông Nam bộ (20.500 ha), Duyên Hải miền Trung (13.000 ha), và Đồng Bằng sông Cửu Long (918.500 ha) (Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, tháng 10 năm 1998) [5].
Ngày 21/7/2003 UBND tỉnh Đắk Lắk đã phê duyệt Dự án phát triển cây ca cao của Tỉnh đến 2010 với diện tích 10.000 ha [4]. Tính đến năm 2005 tổng diện tích ca cao của tỉnh Đắk Lắk đã đạt được 1.024,9 ha trong tổng diện tích ca cao toàn quốc là 4.500 ha.
Cây ca cao ở Đắk Lắk hiện nay đang được quan tâm và ngày càng gia tăng về diện tích, đầu tư thâm canh cao để tăng năng suất, sản lượng và chất lượng. Hiện nay, nông dân trồng đại trà nhiều giống khác nhau, vừa cây thực sinh và cây ghép nên chất lượng chưa đạt như mong muốn, để đáp ứng nhu cầu chọn lựa được các giống ca cao có khả năng sinh trưởng, phát triển tốt và năng suất chất lượng hạt cao chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá sinh trưởng, phát triển, năng suất và phẩm cấp hạt của 5 dòng ca cao tại Huyện Krông Ana, Tỉnh Đắk Lắk”.
2. Mục tiêu của đề tài
Nhằm chọn ra một số dòng ca cao có khả năng sinh trưởng phát triển tốt, cho năng suất cao và phẩm cấp hạt tốt để phục vụ cho việc phát triển ca cao tại địa phương.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
3.1 Ý nghĩa khoa học
Kết quả sẽ cung cấp những dẫn liệu khoa học về khả năng sinh trưởng, phát triển, năng suất và chất lượng hạt của một số dòng ca cao trồng tại huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk.
– Làm cơ sở để chọn được một số dòng ca cao có triển vọng, phù hợp với điều kiện sinh thái của địa phương và phục vụ các công trình nghiên cứu tiếp theo về cây ca cao tại tỉnh Đắk Lắk.
3.2 Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả đề tài sẽ xác định được những dòng ca cao có triển vọng và thích nghi tại địa phương để đưa vào cơ cấu cây trồng hàng năm. Góp phần tăng thu nhập và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân địa phương.
Kết quả đề tài sẽ cung cấp những dẫn liệu về ca cao đang trồng tại địa phương, làm tài liệu tham khảo cho các trường Cao đẳng và Đại học chuyên ngành. Đồng thời phục vụ cho những nghiên cứu chiều sâu về các dòng ca cao.
4. Phạm vi nghiên cứu và giới hạn đề tài
Địa điểm và thời gian nghiên cứu: Đề tài thực hiện từ tháng 09/2009 đến tháng 09/2010 tại thôn Quỳnh Ngọc, xã Ena, huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk.
Đề tài được tiến hành trong một thời gian ngắn nên chưa thể đánh giá một cách toàn diện về các điểm nổi bật của các dòng ca cao. Hơn nữa cây ca cao là cây công nghiệp dài ngày nên muốn hệ thống hoá cần phải có thời gian dài. Do vậy đề tài chỉ nghiên cứu 05 dòng ca cao: TD1, TD3, TD5, TD6, TD10 đang được trồng phổ biến tại huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk.
5. Cấu trúc luận văn
Luận văn được trình bày trong 64 trang không kể tài liệu tham khảo và phụ lục, trong đó có 25 bảng biểu và 08 đồ thị.
Trong quá trình thực hiện đề tài tác giả đã tham khảo 26 tài liệu, trong đó có 14 tài liệu tiếng Việt, 12 tài liệu tiếng Anh và 04 tài liệu từ Internet.
Toàn bộ luận văn gồm có 05 phần. Trong đó gồm:
Mở đầu: 04 trang
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu : 31 trang
Chương 2: Nội dung và phương pháp nghiên cứu: 09 trang
Chương 3: Kết quả và thảo luận: 28 trang
Kết luận và kiến nghị: 01 trang