MỞ ĐẦU
Đặt vấn đề
Việt Nam được xem là cường quốc cà phê với sản lượng chỉ đứng thứ hai sau Brazil, và đứng đầu về xuất khẩu cà phê vối. Hiện nay, với diện tích khoảng 530 ngàn ha, hàng năm xuất khẩu khoảng 1 triệu tấn cà phê với kim ngạch gần 2 tỷ USD và đã tạo ra hàng triệu việc làm cho người sản xuất cà phê.
Mặc dù chúng ta đã thành công trong vấn đề tăng năng suất cà phê và sản xuất ra khối lượng lớn, song sự giảm uy tín về chất lượng cà phê nhân trên thị trường thế giới đã gây thiệt hại đến lợi ích của toàn ngành và cần phải có những giải pháp can thiệp kịp thời.
Việc mở rộng diện tích cà phê và thâm canh tăng năng suất quá cao đã làm phá vỡ quy hoạch diện tích cà phê, làm mất cân bằng sinh thái (độc canh cà phê, sử dụng quá mức phân bón và thuốc hoá học), suy thoái môi trường (mực nước ngầm giảm, xói mòn đất và ô nhiễm môi trường), và đặc biệt là tính bền vững trong sản xuất cà phê rất kém gây ra những rủi ro lớn cho người sản xuất.
Trong điều kiện sản xuất hàng hoá, chịu sự tác động cạnh tranh thị trường (chất lượng, giá cả, điều kiện thương mại…) thì người sản xuất cà phê không thể tồn tại độc lập, không thể chỉ biết sản xuất mà không biết tính đến yếu tố thị trường; không thể chỉ biết sản xuất theo thói quen, tập quán mà lại không tiếp cận và ứng dụng các kỹ thuật tiến bộ. Vì vậy mối quan hệ “bốn nhà” trong sản xuất cà phê hay còn gọi là các liên kết “ngang” trong quá trình sản xuất cà phê là rất quan trọng giúp người trồng cà phê có thể thích ứng trong bối cảnh này.
Phát triển sản xuất cà phê có chứng chỉ là một xu thế tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Đây cũng là hình thức sản xuất cà phê bền vững thông qua các chứng chỉ có giá trị quốc tế, từ đó tạo sự tin tưởng của người tiêu dùng vào chất lượng sản phẩm được truy nguyên nguồn gốc và đảm bảo quyền lợi, sức khỏe của người lao động.
Tỉnh Dak Lak, với diện tích cà phê khoảng 190 ngàn ha, đến đầu năm 2010 diện tích tham gia sản xuất cấp các chứng chỉ cà phê bền vững khoảng 19 ngàn ha (chiếm 34% diện tích cà phê có chứng chỉ / chứng nhận cả nước), đặc biệt các loại hình chứng chỉ này đã được các hộ nông dân tham gia áp dụng ngày càng nhiều, chứng tỏ chúng đã từng bước phù hợp với nhu cầu, khả năng của người nông dân và tính thực tế.
Đi đầu về diện tích cà phê được cấp chứng chỉ tại các địa phương trong Dak Lak là huyện Cư M’gar xét về cả diện tích và loại hình. Tính đến đầu năm 2010, các hộ nông dân trồng cà phê tại huyện đã cùng với các công ty như: Công ty liên doanh Dakman, Công ty cổ phần Trung Nguyên, Công ty Simexco, Công ty Armajaoro tham gia áp dụng 4 loại hình sản xuất có chứng chỉ là 4C, Rainforest, Fairtrade và UTZ Certified, với tổng diện tích khoảng 2.507 ha, với năng suất và chất lượng đều tăng liên tục trong những năm gần đây.
Tuy đã có sự chuyển biến về nhận thức trong canh tác cà phê của nông dân, song phần lớn hộ nông dân còn lại vẫn chưa sẵn sàng tham gia do ý thức còn mang tính tự phát, tính bảo thủ còn tồn tại, chưa nhận thức được đầy đủ lợi ích từ việc canh tác cà phê bền vững mang lại.
Việc tiến hành đề tài “Đánh giá hiệu quả của các loại hình sản xuất cà phê có chứng chỉ tại huyện Cư M’gar, Đăk Lăk” trong bối cảnh hiện nay là cần thiết nhằm cung cấp cơ sở khoa học cũng như thực tiễn giúp nhà quản lý để xuất các chính sách, cơ chế để phát triển diện tích sản xuất cà phê có chứng chỉ phục vụ yêu cầu sản xuất cà phê bền vững theo chủ trương của tỉnh và theo xu hướng chung hiện nay trên thế giới.
Mục tiêu của đề tài
Đánh giá được hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường đối với các loại hình sản xuất cà phê cấp chứng chỉ tại huyện Cư M’gar, tỉnh Dak Lak.