Luận văn thạc sĩ Lâm nghiệp: Bước đầu nghiên cứu và đề xuất các giải pháp bảo tồn các loài thú Linh trưởng (Primates) tại Vườn quốc gia Chư Yang Sin Lưu

Luận văn thạc sĩ Lâm nghiệp: Bước đầu nghiên cứu và đề xuất các giải pháp bảo tồn các loài thú Linh trưởng (Primates) tại Vườn quốc gia Chư Yang Sin

Danh mục: , Người đăng: Văn Hải Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt Định dạng: , Lượt xem: 30 lượt Lượt tải: 0 lượt
Tài liệu, tư liệu này được sưu tầm từ nhiều nguồn và được chia sẻ lại với mục đích tham khảo, các bạn đọc nghiên cứu và muốn trích lục lại nội dung xin hãy liên hệ Tác giả, bản quyền và nội dung tài liệu thuộc về Tác Giả & Cơ sở Giáo dục, Xin cảm ơn !

Nội dung

Chương 1: MỞ ĐẦU – GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI

1.2. MỞ ĐẦU

Thú hoang dã nói chung và thú Linh trưởng nói riêng có vai trò quan trọng trong hệ sinh thái tự nhiên và có ý nghĩa to lớn đối với đời sống của con người. Các loài thú Linh trưởng không những được sử dụng làm thực phẩm, dược liệu, làm cảnh, xuất khẩu mà còn được sử dụng trong nghiên cứu sinh học và y học thực nghiệm góp phần trong việc điều trị bệnh cho con người.

Việt Nam được các tổ chức quốc tế công nhận là một trong 16 quốc gia trên thế giới có tính đa dạng sinh học cao. Theo thống kê của các nhà động vật học hiện nay Việt Nam có 298 loài và phân loài thú hoang dã, trong đó có 24 loài và phân loài thú Linh trưởng đã được ghi nhận, với nhiều loài quý hiếm, đặc hữu [6]. Nhằm bảo tồn, phát triển và sử dụng bền vững tài nguyên sinh vật, trong đó có các loài thú Linh trưởng, Việt Nam đã thành lập 30 Vườn quốc gia, 56 khu bảo tồn thiên nhiên và 37 khu bảo vệ cảnh quan [1].

Vườn quốc gia Chư Yang Sin thuộc Cao nguyên Đà Lạt, là một trong ít khu vực còn lại của Việt nam có diện tích rừng nguyên sinh rộng lớn điển hình cho kiểu rừng lá rộng núi cao vùng Tây Nguyên đã được ghi nhận là một trung tâm đặc hữu của các loài chim và các loài thực vật ở mức độ toàn cầu. Tại đây, các nhà khoa học đã tìm thấy 8 loài chim gồm Gà tiền mặt đỏ, Khướu đầu đen, Khướu đầu đen má xám, Khướu mun, Khướu mỏ dài, Mi núi bà, Sẽ họng vàng, Chích chạch má xám và 6 loài Linh trưởng có tên trong Sách Đỏ Việt Nam năm 2007 và Danh sách các loài thú có nguy cơ bị diệt vong của Hiệp hội bảo vệ thiên nhiên thế giới năm 2008 đó là: Cu li nhỏ Nycticebus pygmaeus, Khỉ mặt đỏ Macaca arctoides, Khỉ đuôi dài Macaca fascicularis, Khỉ đuôi lợn Macaca leonina, Chà vá chân đen Pygathrix nigripes và Vượn đen má vàng Nomascus gabriellae.

Tuy nhiên trong những năm gần đây việc phá rừng, khai thác lâm sản cùng với tình trạng khai thác, săn bắt và buôn bán trái phép động vật rừng vẫn còn xảy ra ở VQG Chư Yang Sin làm suy giảm về số lượng của các loài thú Linh trưởng, nhiều loài đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng. Xuất phát từ thực tiễn trên chúng tôi đã thực hiện đề tài: “Bước đầu nghiên cứu và đề xuất các giải pháp bảo tồn các loài thú Linh trưởng (Primates) tại Vườn quốc gia Chư Yang Sin

1.2. MỤC TIÊU, THỜI GIAN NGHIÊN CỨU

1.2.1. Mục tiêu

Đề tài đạt được một số mục tiêu sau:

Cung cấp thông tin về thành phần loài, một số đặc điểm sinh học, sinh thái học và phân bố của các loài thú Linh trưởng; ước tính số lượng đàn và cá thể của các loài thú Linh trưởng; xác định phân bố thú Linh trưởng theo các địa giới tiểu khu, sinh cảnh, tầng cây rừng và đai độ cao, lập bản đồ phân bố các loài thú Linh trưởng ở VQG Chư Yang Sin; xác định các tác nhân đe doạ đến thú Linh trưởng và thực trạng công tác bảo tồn ở VQG Chư Yang Sin làm cơ sở đề xuất một số giải pháp bảo tồn thú Linh trưởng ở VQG Chư Yang Sin.

Ý nghĩa thực tiễn của luận văn.

Là công trình đầu tiên nghiên cứu về thú Linh trưởng ở VQG Chư Yang Sin, hy vọng kết quả của luận văn bổ sung thêm tư liệu khoa học về thú Linh trưởng của Việt Nam, là tư liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu tiếp theo và góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các kế hoạch bảo tồn những loài thú Linh trưởng quý hiếm VQG Chư Yang Sin.

1.2.2. Thời gian nghiên cứu

Nghiên cứu trên thực địa được tiến hành từ tháng 3 năm 2006 đến tháng 5 năm 2009 với 7 đợt (tổng số 122 ngày) chi tiết ở bảng 1.1

– Ngoài ra đã tiến hành điều tra 35 ngày ở các xã trong vùng đệm

1.3. ĐỐI TƯỢNG, KHU VỰC NGHIÊN CỨU

1.3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài chỉ quan tâm nghiên cứu các loài thú Linh trưởng ở VQG Chư Yang Sin. Một số đặc điểm chung về đối tượng nghiên cứu như sau:

1.3.1.1. Đặc điểm chung về sinh học, sinh thái học

Bộ Linh trưởng (Primates) hay còn gọi là bộ Khi hầu gồm các loài thú về cơ bản thích nghi với đời sống trên cây. Tứ chỉ thích nghi với việc cầm nắm và leo trèo. Bàn tay có 5 ngón, có ngón cái đối diện với các ngón khác, xương quay và xương trụ cử động tỳ vào nhau đảm bảo cho cử động lật ngửa của bàn tay. Hộp sọ tương đối lớn, xương mặt giảm đi, ổ mắt hướng về phía trước, não phát triển có bán cầu đại não dày. Răng hàm có nhiều mấu thích nghi với thức ăn tạp hay lá quả. [9], [13].

Đặc điểm khác biệt nổi bật của thú Linh trưởng so với các loài thú hoạt động trên cây khác là thú Linh trưởng leo cây bằng cách dùng tay ôm vào thân cây hoặc cành cây (các loài thú khác dùng móng vuốt sắc bấu vào thân cây). Leo cây kiểu ôm là một đặc điểm tiến hoá, giúp thú Linh trưởng leo trèo an toàn hơn khi leo ra các cành nhỏ và do đó khả năng tiếp cận với thức ăn cũng tốt hơn. Đặc điểm khác nhiều với các động vật khác nữa là dùng mắt phát hiện, định vị con mồi và dùng tay để bắt mồi. Linh trưởng có một đôi vú ở ngực, thường đẻ một con, ít khi đẻ sinh đôi, con non yếu cần sự chăm sóc một thời gian của mẹ. So với nhiều thú khác, thú Linh trưởng có xu hướng kéo dài thời kỳ mang thai và thời kỳ con non phụ thuộc vào bố mẹ, do đó hình thành các nhóm xã hội phức tạp.

1.3.1.2. Một số vấn đề về phân loại học bộ Linh trưởng

Theo hệ thống phân loại của Wilson and Reeder (2005) và Đặng Ngọc Cần (2008) ở Việt Nam có 24 loài và phân loài thuộc 3 họ là: họ Cu li Loridae, họ Khi Cercopithecidae và họ Vượn Hylobatidae [6], [9], [52].

Họ Cu li Loridae chỉ có 1 giống Nycticebus với hai loài cu li là: Cu li lớn Nycticebus bengalensis và Cu li nhỏ Nyctiebus pygmaeus.

Họ Khỉ Cercopithecidae gồm 2 phân họ, có số loài và phân loài phong phú nhất, với 17 loài và phân loài : Phân họ Khi Cercopithecinae chỉ có 1 giống Macaca (có 6 loài và phân loài) còn phân họ Voọc Colobinae có 3 giống là: giống Pygathrix (có 3 loài), giống Trachypithecus (có 7 loài và phân loài) và giống Rhinopithecus (có 1 loài). Họ Vượn Hylobatidae có 1 giống Nomascus với 5 loài và phân loài.

Việt Nam là một trong những nước ở phân vùng địa động vật Đông Dương, giàu về thành phần loài Linh trưởng. So với châu Á (183 loài và phân loài) thì Việt Nam có 24 loài và phân loài (chiếm 13,11%) và chỉ đứng sau Indonesia (36,07%), Thái Lan (19,13%), Ấn Độ (15,30%), Trung Hoa (14,75%) và Malaysia (14,21%). Khu hệ Linh trưởng Việt Nam có quan hệ với các khu hệ phụ cận, trong đó yếu tố Đông Dương là trội hơn cả (với 18 loài và phân loài, chiếm 75,00%), tiếp đến là yếu tố Nam Trung Hoa (với 10 loài và phân loài, chiếm 41,67%), Ấn Độ (chiếm 20,83%), Mã Lai (chiếm 8,33%) và ít nhất là yếu tố Himalaya (4,17%). Ngoài ra, khu hệ Linh trưởng Việt Nam cũng có tỷ lệ cao về yếu tố đặc hữu (chiếm 25,00%) [14], [25], [28].

Trong số 24 loài và phân loài thú Linh trưởng đã được ghi nhận ở Việt Nam có 6 loài và phân loài là đặc hữu của Việt Nam, đó là: Voọc mũi hếch Rhinopithecus avunculus, Voọc mông trắng Trachypithecus delacouri, Voọc cát bà Trachypithecus poliocephalus poliocephalus, Chà vá chân xám Pygathrix nemaeus, Khi đuôi dài Côn Đảo Macaca fascicularis condorensis và Vượn đen đông bắc Nomascus nasutus. (phụ lục 1)

1.3.2. Khu vực nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu trong khu vực 35 tiểu khu của VQG Chư Yang Sin

Tải tài liệu

1.

Luận văn thạc sĩ Lâm nghiệp: Bước đầu nghiên cứu và đề xuất các giải pháp bảo tồn các loài thú Linh trưởng (Primates) tại Vườn quốc gia Chư Yang Sin

.zip
7.37 MB

Có thể bạn quan tâm

Lưu tài liệu Tải tài liệu