Luận án tiến sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế
Tên luận án: Quản lý nhà nước về thu phí và lệ phí hàng hải tại các cảng biển Việt Nam
Tính cấp thiết của đề tài
Với bờ biển dài 3.260 km và rất nhiều đảo lớn nhỏ có địa điểm thích hợp cho xây dựng cảng biển, tọa lạc ở vị trí gần với 10 tuyến đường hàng hải quốc tế lớn nhất, Việt Nam là một trong số các quốc gia trên thế giới có lợi thế lớn về kinh tế biển nói chung, về dịch vụ cảng biển, vận tải đường biển nói riêng. Lợi thế này có vai trò rất quan trọng trong thời đại toàn cầu hóa. Bởi vì vận tải hàng hóa đường biển có ưu thế vượt trội nhờ khối lượng vận tải lớn, phương thức vận tải đa dạng, có thể vận chuyển các loại hàng hóa siêu trường, siêu trọng, giá thành vận chuyển thấp… Theo thống kê của Cục Hàng hải Việt Nam (Cục HHVN) và Tổng cục Hải quan thì vận tải đường biển thường đảm nhiệm từ 80% đến 90% khối lượng hàng hoá xuất, nhập khẩu của nước ta.
Nhận thức rõ lợi thế này, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến khích phát triển kinh tế biển nói chung, cảng biển nói riêng. Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020 đã đề ra mục tiêu: Đến năm 2020, kinh tế biển và ven biển đóng góp khoảng 53-55% GDP của cả nước [24, tr.3], trong đó nhấn mạnh:
Xây dựng một số thương cảng quốc tế có tầm cỡ khu vực, hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh. Xây dựng một số khu kinh tế mạnh ở ven biển; xây dựng cơ quan QLNN tổng hợp thống nhất về biển có hiệu lực, hiệu quả; mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực về biển. Đến năm 2020, phát triển thành công, có bước đột phá về kinh tế biển, ven biển như sau: 1) Khai thác, chế biến dầu, khí; 2) Kinh tế hàng hải; 3) Khai thác, chế biến hải sản…. Sau năm 2020, thứ tự phát triển kinh tế biển có sự thay đổi: 1) Kinh tế hàng hải; 2) Khai thác, chế biến dầu, khí và các loại khoáng sản; 3) Khai thác, chế biến hải sản; 4) Du lịch biển và kinh tế hải đảo…, [24, tr.4].
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020 cũng đã chỉ rõ:
Phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biển của nước ta, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh,bảo vệ chủ quyền vùng biển. Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp năng lượng, đóng tàu, xi-măng, chế biến thủy sản chất lượng cao. Phát triển cảng biển, dịch vụ cảng và vận tải biển, sông-biển; phát triển các đội tàu, công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển [23, tr.14].