Luận án tiến sĩ chuyên ngành Kinh tế phát triển
Tên luận án: Khai thác khoáng sản trong chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam
Tính cấp thiết của đề tài
Tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên khoáng sản nói riêng là một trong những đầu vào của sản xuất. Không những vậy, nhiều loại khoáng sản còn gắn liền với lợi thế so sánh và vị thế của quốc gia. Việt Nam được đánh giá là có tiềm năng về khoáng sản với khoảng hơn 5000 mỏ và điểm mỏ của hơn 60 loại khoáng sản [10].
Trong thời gian qua, ngành công nghiệp khai khoáng đã có những đóng góp nhất định vào tăng trưởng kinh tế, thu ngân sách và giải quyết việc làm. Tuy nhiên, ngành này hiện đang bộc lộ không ít hạn chế, thách thức đối với tăng trưởng xanh, phát triển bền vững.
Tình trạng khai thác ồ ạt tài nguyên khoáng sản, hiệu quả sử dụng tài nguyên thấp, tỷ lệ tổn thất cao, nhiều loại tài nguyên khoáng sản có nguy cơ bước vào thời kỳ bị cạn kiệt. Việc cấp phép khai thác thiếu hợp lý, thậm chí có tình trạng chia nhỏ khu vực khai thác để cấp phép. Các doanh nghiệp khai khoáng chủ yếu là quy mô nhỏ, trình độ kỹ thuật lạc hậu và trình độ tay nghề của người lao động còn hạn chế [18]. Sự lãng phí, tổn thất khoáng sản trong hoạt động khai thác cao [78].
Hoạt động khai thác khoáng sản tác động tiêu cực tới môi trường, sinh kế, hệ thống đường sá phục vụ dân sinh [59], [64], [68]. Việc khai thác khoáng sản cũng thải ra một khối lượng lớn đất đá thải, ảnh hưởng tới môi trường xung quanh [48], [50].
Khoáng sản đã khai thác chủ yếu được xuất khẩu ở dạng thô, thay vì lấy nguồn tài nguyên khoáng sản làm “mồi” để thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến, khiến cho Việt Nam có nguy cơ mất dần cơ hội để phát triển những ngành công nghiệp quan trọng, những lĩnh vực phụ trợ có sức lan tỏa lớn. Việc khai thác tài nguyên mà không gắn với phát triển công nghiệp chế biến có nguy cơ đẩy nhanh tốc độ “chảy máu tài nguyên”, khi các ngành công nghiệp nội địa phát triển thì tài nguyên cũng không còn.