NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Đề tài luận án: Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp chế biến sữa Việt Nam
Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã số: 9310105
Mã NCS: NCS38.014PT
Nghiên cứu sinh: Đào Duy Hà
Tuân Người hướng dẫn: PGS.TS Bùi Đức
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận
Thứ nhất, luận án đã làm rõ hơn nội hàm về năng lực cạnh tranh (NLCT) của ngành công nghiệp chế biến (CNCB) sữa. Theo đó, NLCT của ngành CNCB sữa được thể hiện và đánh giá thông qua khả năng chống chọi và phát triển của ngành không chỉ ở thị trường nội địa mà còn cả ở thị trường quốc tế. Tuy nhiên, khả năng đó cần dựa trên cơ sở đạt được hiệu quả sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành.
Thứ hai, luận án đã hoàn thiện bộ tiêu chí, chỉ tiêu và phương pháp đo lường NLCT áp dụng với ngành CNCB sữa. Phương pháp này quy đổi các chỉ tiêu thông qua phép biển đối Z và tổng hợp thành một giá trị duy nhất, cho phép so sánh và đánh giá NLCT ngành CNCB sữa giữa các quốc gia với nhau.
Thứ ba, luận án đã kiểm định và xác nhận một số yếu tố có ảnh hưởng đến NLCT ngành CNCB sữa Việt Nam trong ngắn hạn và dài hạn, góp phần cùng cổ mô hình phân tích (Kim cương của Michael Porter).
Những phát hiện, đề xuất mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu của luận án
Thứ nhất, luận án chứng minh tiềm năng phát triển của ngành CNCB sữa Việt Nam còn lớn. Tuy nhiên, sức ép cạnh tranh trên cả thị trường nội địa và quốc tế có xu hướng ngày càng cao.
Thứ hai, luận án phát hiện NLCT của ngành CNCB sữa Việt Nam tương đối cao so với các quốc gia khác trên thế giới, xếp thứ 30/87 quốc gia được xếp hạng. Trong đó, các chỉ tiêu kinh tế thể hiện khá tốt nhưng đang có xu hướng giảm dần, trong khi các chỉ tiêu ở khía cạnh thương mại thì còn hạn chế nhưng đang dần được cải thiện.
Thứ ba, luận án phát hiện quy mô đàn bò, tỷ giá hối đoái và chính sách là các nhân tố tác động thuận chiều và hỗ trợ nâng cao NLCT của ngành; giá sữa nguyên liệu tuy có tác động ngược chiều nhưng có vai trò thúc đấy NLCT; quy mô cầu có tác động tích cực trong ngắn hạn nhưng tiêu cực trong dài hạn; trong khi độ mở thương mại thì ngược lại. Bên cạnh đó, khả năng tiếp cận nguồn vốn, năng suất sữa nguyên liệu, thị hiểu của người tiêu dùng, điều kiện khí hậu, v.v. cũng là những yếu tố bất lợi đối với NLCT của ngành CNCB sữa Việt Nam.
Thứ tư, nhằm nâng cao NLCT của ngành CNCB sữa, luận án đã nêu ra các hàm ý chính sách về thích ứng với tình hình và biển động của thị trường, cải thiện trực tiếp các chỉ tiêu đo lường NLCT, và thúc đẩy các yêu tố ảnh hưởng đến NLCT. Luận án cũng đã đề xuất một số kiến nghị với Chính phủ, các Bộ, Ban, Ngành và Hiệp hội sữa Việt Nam như hoàn thiện các quy định đảm bảo chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực quản lý, hỗ trợ tổ chức xúc tiến thương mại, nâng cao công tác dự báo, tăng cường vai trò giám sát thị trường, hỗ trợ giải quyết các tranh chấp thương mại, v.v.