Luận án tiến sĩ chuyên ngành Quản lý Kinh tế (Khoa học Quản lý)
Tên luận án: Các nhân tố ảnh hưởng tới việc áp dụng thực hành nông nghiệp tốt của các cơ sở sản xuất rau ở Việt Nam
Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận
Các nghiên cứu liên quan đến áp dụng thực hành nông nghiệp tốt (GAP) trong sản xuất nông sản nói chung và sản xuất rau nói riêng tập trung vào hai hướng nghiên cứu chính: (1) nghiên cứu hai nhóm yếu tố bên trong và bên ngoài cơ sở ảnh hưởng tới việc áp dụng GAP như Sriwichailamphan và cộng sự (2008), Zhou và Jin (2009), Jayasinghe-Mudalige (2005); và (2) nghiên cứu vai trò của nhà nước trong sản xuất nông sản áp dụng GAP như Hanak và cộng sự (2002), Wannamolee (2008), Srimanee và Routray (2011). Trong bối cảnh Việt Nam, ngoài chức năng ban hành và kiểm soát việc tuân thủ các quy định về an toàn thực phẩm, Nhà nước giữ vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các cơ sở sản xuất rau áp dụng GAP. So với các nghiên cứu đi trước, đề tài đã nghiên cứu thêm các hỗ trợ của Nhà nước trong sản xuất rau áp dụng GAP.
Với giả thiết các nhân tố thuộc về cơ sở sản xuất rau, khách hàng và Nhà nước có ảnh hưởng tới việc áp dụng GAP, luận án xác định và đánh giá tầm quan trọng của các nhân tố ảnh hưởng tới việc áp dụng GAP của các cơ sở sản xuất rau. Việc tiếp cận các nhân tố ảnh hưởng tới áp dụng GAP dựa trên giác độ của cơ sở sản xuất rau.
Những đề xuất mới rút ra từ kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu chỉ ra các nhân tố có tác động tích cực tới việc áp dụng GAP của cơ sở sản xuất rau bao gồm: (1) các nhân tố thuộc về cơ sở sản xuất rau gồm: nhận thức của cơ sở về lợi nhuận, năng lực cạnh tranh và danh tiếng thu được nếu áp dụng GAP; (2) các nhân tố thuộc về khách hàng gồm: yêu cầu rau GAP từ khách hàng, đặc biệt là hộ gia đình, siêu thị, cửa hàng bán lẻ và các nhà máy chế biến; và (3) các nhân tố thuộc về Nhà nước gồm: quy hoạch vùng sản xuất rau an toàn; các hỗ trợ vật tư nông nghiệp, giám sát nội bộ, cấp giấy chứng nhận, xúc tiến thương mại; kiểm soát của Nhà nước đối với việc áp dụng GAP của cơ sở sản xuất rau. Ngoài ra, các nhân tố không ảnh hưởng tới việc áp dụng GAP như nhận thức của cơ sở về áp lực từ khách hàng, diện tích trồng rau, vị trí địa lý của cơ sở, trang web của cơ sở, bếp ăn tập thể, thương lái, chợ đầu mối, hỗ trợ hạ tầng kỹ thuật và đào tạo.
Từ kết quả nghiên cứu, để duy trì và nhân rộng việc áp dụng GAP trong sản xuất rau ở Việt Nam, luận án đề xuất một số giải pháp Nhà nước trong hoạch định các chính sách quản lý và hỗ trợ, tổ chức thực hiện và kiểm soát hoạt động sản xuất và tiêu thụ rau GAP. Bên cạnh đó, luận án đưa ra một số khuyến nghị đối với các cơ sở sản xuất rau, cũng như các khách hàng thương mại, công nghiệp và người tiêu dùng nhằm nâng cao nhận thức và khả năng sản xuất và tiêu thụ rau GAP.