Luận án tiến sĩ chuyên ngành Kế toán – Kiểm toán
Tên luận án: Ảnh hưởng của cổ phần hóa đến hiệu quả tài chính của các DNNN Việt Nam
Đóng góp về mặt lý luận:
Luận án này cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm về hiệu quả hoạt động nói chung và hiệu quả tài chính nói riêng do sự chuyển đổi sở hữu từ sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân. Qua kết quả nghiên cứu, luận án ủng hộ quan điểm đẩy mạnh chương trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước của Chính phủ các nước trong đó có Việt Nam.
Khác với những nghiên cứu đi trước, luận án thu thập một mẫu nghiên cứu lớn, sử dụng hệ thống chỉ tiêu đo lường hiệu quả tài chính theo các nhóm chỉ tiêu đầy đủ, bao gồm: (1) khả năng sinh lợi; (2) hiệu quả sử dụng vốn; (3) hiệu quả sử dụng chi phí; (4) hiệu quả sử dụng lao động để đánh giá sự thay đổi kết quả hoạt động của doanh nghiệp qua hai thời điểm: sau khi cổ phần hóa và trước khi cổ phần hóa. Hơn nữa, để đánh giá được nhân tố ảnh hưởng, luận án đã xây dựng hàm hồi quy với ba biến độc lập và 9 biến phụ thuộc. Qua hàm hồi quy này đã khẳng định sự ảnh hưởng của sự thay đổi sở hữu đến hiệu quả tài chính của các doanh nghiệp nghiên cứu.
Đóng góp về mặt thực tiễn:
Thứ nhất, cần đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô lớn. Hình thức để sắp xếp, đổi mới nên áp dụng là cổ phần hóa, do phương thức này có khả năng tách bạch được chức năng quản lý và chức năng sở hữu vốn, giảm bớt chức năng kinh doanh của Nhà nước, tăng thu ngân sách,… nên cần phải đẩy mạnh hơn nữa hình thức này.
Thứ hai, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước theo hướng giảm tối đa tỷ lệ sở hữu của Nhà nước sau cổ phần. Theo kết quả nghiên cứu các doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu của Nhà nước càng thấp thì khả năng sinh lợi của tài sản, của doanh thu càng lớn, hay nói cách khác khi thực hiện cổ phần hóa Nhà nước thoái vốn càng nhiều thì hiệu quả tài chính của doanh nghiệp càng cao.
Thứ ba, doanh nghiệp cần lành mạnh hóa tình hình tài chính trước khi cổ phần hóa. Kết quả nghiên cứu chỉ cho thấy dấu hiệu các doanh nghiệp Nhà nước có sự cải thiện sau so với trước cổ phần hóa mà không có sự cải thiện ở các năm sau cổ phần với nhau. Điều này có thể do doanh nghiệp đã “làm đẹp” số liệu kế toán trước khi cổ phần hóa. Vì vậy, chính phủ cần tăng cường biện pháp ngăn chặn hành vi này.
Thứ tư, doanh nghiệp nên thay đổi bộ máy quản lý sau cổ phần hóa. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhiều doanh nghiệp vẫn tiếp tục giữ vị trí giám đốc điều hành doanh nghiệp. Kết quả kiểm định cho thấy các doanh nghiệp không thay đổi giám đốc điều hành thì kết quả tài chính không cao.
Thứ năm, các doanh nghiệp Nhà nước sau cổ phần hóa cần thay đổi nội tại đơn vị, đặc biệt các yếu điểm về khả năng kiểm soát chi phí, hiệu quả sử dụng vốn,… Bên cạnh đó, các biện pháp giám sát qua cổ đông, qua cạnh tranh là những biện pháp cần thiết phải được áp dụng cho doanh nghiệp Nhà nước sau cổ phần hóa.