MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cao su có tên khoa học là Heavea Brasiliensis thuộc Họ Euphorbiaceae, Bộ Euphorbiales. Cây cao su được tìm thấy tại vùng châu thổ sông Amazone (Nam Mỹ), được trồng phổ biến trên quy mô lớn tại vùng Đông Nam châu Á từ năm 1876 và được trồng ở Việt Nam từ năm 1897.
Cây cao su là một cây công nghiệp dài ngày, có giá trị kinh tế cao, mang lại sản phẩm kinh tế trong nhiều năm, sản phẩm chính là mủ cao su là một nguyên liệu cần thiết trong nhiều ngành công nghiệp hiện nay. Ngoài ra cây cao su còn có các sản phẩm khác cũng có công dụng không kém phần quan trọng như gỗ, dầu hạt. Cây cao su còn được xem là cây Nông – Lâm kết hợp có khả năng trồng trên đất kém, đất dốc giúp phủ xanh đất đòi trọc góp phần bảo vệ đất, tăng thu nhập và cân bằng môi trường sinh thái
Diện tích trồng cao su ở nước ta đến năm 2010 đạt 740.000 ha với sản lượng đạt khoảng 754.500 tấn mủ khô. Để phát triển diện tích trồng cao su đáp ứng nhu cầu nguyên liệu phục vụ sản xuất và xuất khẩu, Chính phủ có quyết định phát triển cây cao su lên 800.000 ha vào năm 2015 và đạt sản lượng từ 1,1 – 1,2 triệu tấn vào năm 2020, đồng thời hỗ trợ các dự án phát triển cây cao su ở nước ngoài của các doanh nghiệp (200.000 ha tại Lào và Campuchia…) (Trần Thị Thúy Hoa, 2010, 2011) [10, 7].
Khí hậu Đắk Lắk phân làm hai mùa rõ rệt: Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa khá lớn (khoảng 300mm/tháng), mưa nhiều ngày (22-25 ngày/tháng) ảnh hưởng rất lớn đến việc cạo mủ và thu gom mù. Đây là nguyên nhân chính làm giảm năng suất mủ trong mùa mưa. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, nhiệt độ thấp (20-21°C), gió mạnh (4-5 m/s), ẩm độ không khí và ẩm độ đất rất thấp. Các tháng này hầu như không mưa gây nên hiện tượng khô hạn khắc nghiệt, chính khô hạn và gió mạnh là hai yếu tố hạn chế thời gian chảy mủ làm giảm năng suất mủ trong mùa khô.
Công việc khai thác mủ được tiến hành đều đặn quanh năm. Do đặc điểm khí hậu của vùng Đắk Lắk có mùa khô hạn kéo dài nên thời gian khai thác mủ được tiến hành từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 2 năm sau và nghỉ cạo khi cây rụng lá hoàn toàn. Cây cao su sinh trưởng và phát triển phụ thuộc nhiều vào yếu tố tự nhiên. Trong đó lượng mưa, số ngày mưa và sự phân bố mưa đã ảnh hưởng rất lớn đến công tác khai thác mủ của công nhân và việc hoàn thành chỉ tiêu năng suất của các nông trường cao su.
Trong những năm qua, việc giao khoán sản lượng vườn cây ở các nông trường cao su tại Đắk Lắk còn nhiều bất cập, chưa dựa trên cơ sở sinh lý sản xuất mù của từng giống, từng tuổi cây trên những vùng sinh thái khác nhau. Những nghiên cứu về diễn biến năng suất mù theo mùa vụ của cây cao su có thể giúp các nông trường cao su lên kế hoạch quản lý sản phẩm cũng như có quyết định áp dụng các biện pháp kỹ thuật phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất.
Xuất phát từ thực tế trên và yêu cầu của sản xuất, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu diễn biến năng suất mũ theo mùa vụ của một số dòng vô tính cao su tại Đắk Lắk”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Xác định diễn biến năng suất mủ của một số dòng vô tính cao su làm cơ sở định mức khoán sản lượng vườn cây theo từng tháng, từng quý, từng năm đồng thời có biện pháp tác động nhằm nâng cao năng suất mũ góp phần tạo nền sản xuất ổn định, bền vững và tăng hiệu quả sản xuất cây cao su tại Đắk Lắk.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài đóng góp cơ sở khoa học cho việc xác định quy luật sản xuất mủ của một số dòng vô tính cao su theo mùa vụ và theo tuổi cây tại Đắk Lắk.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài giúp cho các đơn vị sản xuất cao su có cơ sở định mức khoán sản lượng vườn cây theo từng tháng, từng quý, từng năm đồng thời có biện pháp tác động nhằm nâng cao năng suất mủ cao su tại Đắk Lắk.
4. Giới hạn đề tài
Đề tài triển khai nghiên cứu trên vườn cao su kinh doanh nhóm I và nhóm II tại các nông trường cao su thuộc Công ty TNHH MTV cao su Đắk Lắk. Địa điểm nghiên cứu tập trung tại huyện Cư M’Gar, huyện Krông Búk và Thành phố Buôn Ma Thuột.