Luận văn thạc sĩ Lâm nghiệp: Đánh giá nhu cầu bảo tồn theo hướng đồng quản lý tại khu bảo tồn thiên nhiên NamKa tỉnh Đăk Lăk Lưu

Luận văn thạc sĩ Lâm nghiệp: Đánh giá nhu cầu bảo tồn theo hướng đồng quản lý tại khu bảo tồn thiên nhiên NamKa tỉnh Đăk Lăk

Danh mục: , Người đăng: Văn Hải Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt Định dạng: , Lượt xem: 17 lượt Lượt tải: 0 lượt
Tài liệu, tư liệu này được sưu tầm từ nhiều nguồn và được chia sẻ lại với mục đích tham khảo, các bạn đọc nghiên cứu và muốn trích lục lại nội dung xin hãy liên hệ Tác giả, bản quyền và nội dung tài liệu thuộc về Tác Giả & Cơ sở Giáo dục, Xin cảm ơn !

Nội dung

MỞ ĐẦU

Trong nhiều thập kỷ qua, thế giới đã nhận thấy rằng, các khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) và vườn quốc gia (VQG) có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn đa dạng sinh học và mang lại lợi ích cho toàn xã hội. Các khu bảo tồn (KBT) là nơi lưu trữ các vật liệu thiên nhiên cho sự phát triển của các ngành y tế, nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp; đồng thời gìn giữ các chức năng tự nhiên của hệ sinh thái, bảo vệ đất đai, điều hòa khí hậu, giúp con người được sống trong bầu khí quyển trong lành. Mặc dù các KBT có tầm quan trọng như vậy, nhưng quản lý các khu bảo tồn đó đang gặp rất nhiều khó khăn từ phía các cộng đồng địa phương, đặc biệt đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

Đa dạng sinh học có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, trong đời sống vật chất và tinh thần của con người, trong việc duy trì các chu trình tuần hoàn tự nhiên và sự cân bằng sinh thái. Chính vì thế trong những thập kỷ qua, cộng đồng thế giới rất quan tâm đến công tác bảo tồn đa dạng sinh học. Ở Việt Nam công tác bảo tồn tài nguyên thiên nhiên được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm.

Ở Việt Nam công tác bảo tồn tài nguyên thiên nhiên đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng và phát động chiến dịch trồng cây từ năm 1959. Trong suốt quá trình phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm đến công tác bảo tồn đa dạng sinh học bằng việc ban hành nhiều văn kiện mang tính chất pháp lý liên quan đến bảo tồn Đa dạng sinh học; như Luật Đa dạng sinh học, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Luật Bảo vệ môi trường, Kế hoạch hành động đa dạng sinh học… và tham gia các Công ước Quốc tế.

Với đặc điểm diện tích tự nhiên trải dài trên gần 15 vĩ độ (8°20′ – 22°22′ vĩ độ Bắc) và hơn 7 kinh độ (102°10′ -109°20′ kinh độ Đông), địa hình đa dạng, biến đổi từ độ cao 3.143 m cho đến âm dưới mực nước biển, khí hậu nhiệt đới gió mùa; là nơi hội tụ của các luồng thực vật di cư Việt Nam là một trong những nước được đánh giá có tính đa dạng cao về các hệ sinh thái rừng, đa dạng loài Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân chính là mất rừng đang đe doạ nghiêm trọng đa dạng sinh học. Năm 1943 diện tích rừng nước ta là 14,3 triệu ha tương đương độ che phủ 43%, đến năm 1990 diện tích rừng chỉ còn 9,18 triệu ha, tương đương độ che phủ 27,2%[7]. Từ năm 1990 đến nay với nhiều chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước diện tích rừng Việt Nam không ngừng tăng lên, tính đến tháng 12 năm 2008 diện tích rừng cả nước 13,118 triệu ha tương đương độ che phủ 38,7% [4]. Trong đó, rừng tự nhiên 10,348 triệu ha, rừng trồng 2,77 triệu ha (phân theo chức năng: rừng đặc dụng 2,062 triệu ha, chiếm 15,71%; rừng phòng hộ 4,739 triệu ha, chiếm 36,13%; rừng sản xuất 6,299 triệu ha chiếm 47,26%), nhưng chất lượng rừng chưa được cải thiện nhiều, một số loài thực vật, động vật có nguy cơ bị diệt chủng.

Hệ thống rừng đặc dụng được coi là chiến lược bảo tồn thiên nhiên lâu dài của Việt Nam và là cơ hội tồn tại của các loài động – thực vật đang bị đe dọa. Hiện Việt Nam có 144 khu rừng đặc dụng, trong đó có 30 vườn Quốc gia, 69 Khu bảo tồn thiên nhiên và bảo tồn loài và 45 khu bảo tồn cảnh quản với tổng diện tích 2,062 triệu ha [4].

Để khắc phục tình trạng trên, các ngành, các cấp, các Ban quản lý khu BTTN Việt Nam đã và đang thay đổi cách tiếp cận trong quản lý TNR, trao đổi kinh nghiệm, hài hoà với những thông lệ, tiêu chí quản lý BTTN quốc tế. Vấn đề quản lý rừng bền vững đang được rất nhiều người quan tâm và quản lý rừng có sự tham gia của cộng đồng đang là một hướng đi có hiệu quả.

Khu bảo tồn thiên nhiên Nam Ka là rừng đặc dụng quan trọng của tỉnh ĐắkLắk, được thành lập theo quyết định số 182/QĐ/KL ngày 13 tháng 5 năm 1991 của Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp & PTNT), nằm trên 06 xã của 02 huyện là: xã Nam Ka, xã Ea R’Bin, xã Đăk Nuê, xã Buôn Triết, xã Buôn Tría huyện Lăk; xã Bình Hoà huyện Krông Ana. Có tổng diện tích tự nhiên 21.912,3 ha, gồm nhiều dãy núi nối tiếp nhau với mức độ chia cắt mạnh, chính vì vậy đã tạo ra những cảnh quan vô cùng phong phú của các hệ sinh thái rừng nhiệt đới, từ núi cao đồi gò đến những trảng bằng của các thung lũng và ao hồ, đầm lầy nên chứa đựng rất nhiều những nguồn gen quý hiếm của các loài động thực vật ở Tây nguyên nói riêng và Việt Nam nói chung, đồng thời là nơi góp phần điều tiết dòng nước đầu nguồn của 2 con sông Ea Krông Nô và Ea Krông Na.

Mặc dù đã được thành lập khá lâu nhưng ít có người biết đến. Trong những năm qua Khu bảo tồn thiên nhiên Nam Ka đã thu được nhiều kết quả trong công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên rừng và bảo tồn đa dạng sinh học. Tuy nhiên, Khu bảo tồn vẫn chịu nhiều sức ép trong việc quản lý bảo vệ rừng như tệ nạn khai thác thực vật, săn bắt động vật rừng, xâm lấn diện tích rừng,… đã làm suy thoái, mất dần giá trị đa dạng sinh học vô cùng quý báu.

Như vậy, vấn đề đặt ra hiện nay đối với công tác quản lý bảo vệ rừng đặc dụng nói chung và quản lý rừng đặc dụng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Nam Ka nói riêng, đó là cần phải khai thác được sức mạnh tổng hợp của các bên liên quan trong công tác quản lý bảo vệ rừng. Để thực hiện được vấn đề này cần phải đánh giá đúng thực trạng công tác quản lý rừng hiện nay, tìm ra được tồn tại, khó khăn, thách thức; phân tích, đánh giá được tiềm năng, khả năng đồng quản lý rừng của các bên liên quan để từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp, sát đúng với điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội, luật pháp Nhà nước hiện hành.

Để góp phần giải quyết những vấn đề nêu trên, xuất phát từ lý luận và thực tiển, với sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Xuân Thanh, chúng tôi thực hiện đề tài “Đánh giá nhu cầu bảo tồn theo hướng đồng quản lý tại khu bảo tồn thiên nhiên Nam ka – tỉnh Đắk lắk”.

Tải tài liệu

1.

Luận văn thạc sĩ Lâm nghiệp: Đánh giá nhu cầu bảo tồn theo hướng đồng quản lý tại khu bảo tồn thiên nhiên NamKa tỉnh Đăk Lăk

.zip
900.89 KB

Có thể bạn quan tâm

Lưu tài liệu Tải tài liệu