Luận văn thạc sĩ khoa học Nông nghiệp: So sánh một số giống ngô lai triển vọng vụ hè thu và thu đông tại Đắk Lắk Lưu

Luận văn thạc sĩ khoa học Nông nghiệp: So sánh một số giống ngô lai triển vọng vụ hè thu và thu đông tại Đắk Lắk

Danh mục: , Người đăng: Văn Hải Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt Định dạng: , Lượt xem: 14 lượt Lượt tải: 0 lượt
Tài liệu, tư liệu này được sưu tầm từ nhiều nguồn và được chia sẻ lại với mục đích tham khảo, các bạn đọc nghiên cứu và muốn trích lục lại nội dung xin hãy liên hệ Tác giả, bản quyền và nội dung tài liệu thuộc về Tác Giả & Cơ sở Giáo dục, Xin cảm ơn !

Nội dung

MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề

Ngô (Zea mays. L) là một trong những cây ngũ cốc chính có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới và là cây lương thực quan trọng trong nền sản xuất nông nghiệp. Trải qua khoảng 7.000 năm phát triển và qua quá trình chọn lọc tự nhiên, nhân tạo, cây ngô đã có sự di truyền rất rộng rãi và khả năng thích nghi của nó có lẽ không cây trồng nào có thể sánh kịp (Ngô Hữu Tình và CS, 1997) [23]. Hiện nay, tất cả các nước trồng ngô nói chung đều ăn ngô ở những mức độ khác nhau. Toàn thế giới sử dụng 21% sản lượng ngô làm lương thực cho con người. Các nước ở Trung Mỹ, Nam Á và châu Phi sử dụng ngô làm lương thực chính (Trần Văn Minh, 2004) [15].

Ngô không chỉ là cây cung cấp lương thực cho con người, thức ăn cho chăn nuôi mà còn là một trong những nguyên liệu cho nền công nghiệp chế biến (khoảng 70% chất tinh trong thức ăn chăn nuôi tổng hợp là từ ngô). Ngô còn là nguyên liệu phục vụ cho các ngành khác như công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, y học… Trong những năm gần đây, cây ngô là nguồn thu ngoại tệ lớn thông qua xuất nhập khẩu của một số nước. Trên thế giới, hàng năm lượng ngô xuất nhập khẩu khoảng 70 triệu tấn (Trần Văn Minh, 2004) [15]. Theo dự báo sản xuất và mậu dịch ngô trên thế giới năm 2004 – 2005, xuất khẩu ngô đạt 75,62 triệu tấn. Cây ngô được coi là cây ngũ cốc báo hiệu sự no ấm của loài người vì nuôi sống được 1/3 dân số trên thế giới (Kuperman, 1977) [52].

Hiện nay năng suất, diện tích và sản lượng ngô trên thế giới không ngừng tăng lên. Theo Trung tâm Nghiên cứu quốc tế cải lương giống ngô và lúa mỳ CIMMYT, tăng trưởng bình quân hàng năm sản xuất ngô trên thế giới về diện tích là 0,7%, về năng suất là 2,4% và về sản lượng là 3,1% (CIMMYT, 2000) [44].

Theo số liệu thống kê của FAO, năm 2006 diện tích ngô trên toàn thế giới đạt hơn 150 triệu ha, năng suất đạt 4,8 tấn/ha, sản lượng đạt khoảng 696 triệu tấn. Tỷ lệ tăng trưởng là 14% về diện tích, 21% về sản lượng và khoảng 28% về năng suất (FAOSTAT, 2006) [67]. Theo dự đoán của Viện Nghiên cứu chương trình lương thực thế giới (IFPRI, 2002) [51], nhu cầu ngô trên toàn thế giới năm 2020 sẽ vượt 50% so với sản lượng ngô năm 1995, tức là sẽ tăng từ 558 triệu tấn năm 1995 lên tới 837 triệu tấn vào năm 2020. Đây thật sự là thách thức lớn đối với nền sản xuất ngô, đặc biệt là các nước đang phát triển, nơi có tỷ lệ nông dân nghèo khá cao.

Ở Việt Nam, cây ngô được đưa vào gieo trồng từ cuối thế kỷ XVII và được coi là cây lương thực đứng thứ hai sau cây lúa. Thời gian đầu, do công tác giống chưa được chú trọng nên hầu hết diện tích trồng ngô chủ yếu là các giống địa phương cho năng suất thấp, khoảng 1,47 – 1,56 tấn/ha/vụ. Từ sau năm 1992, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đời sống kinh tế của con người đã được cải thiện, nhu cầu xã hội ngày càng tăng, do đó vai trò dùng ngô làm lương thực giảm dần. Tuy nhiên, nhu cầu sử dụng sản phẩm ngô làm thức ăn cho chăn nuôi và ngành công nghiệp chế biến thì ngày càng cao.

Trong những năm gần đây, nhờ sử dụng những giống ngô lai mới nên diện tích, năng suất và sản lượng ngô của Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng và đạt đỉnh cao vào năm 2005. Theo Nguyễn Sinh Cúc [3], năm 2005 diện tích ngô cả nước đạt 1.039 nghìn ha, năng suất đạt 35,5 tạ/ha và sản lượng đạt 3,69 triệu tấn, từ đó đã làm thay đổi tỷ trọng ngô trong cơ cấu sản lượng lương thực từ 5,7% năm 2000 lên đến 9% năm 2005.

Theo định hướng đến năm 2010, cả nước sẽ đưa diện tích trồng ngô lên 1,2 triệu ha, sản lượng ngô cả nước đạt 5 – 6 triệu tấn, trong đó tỷ lệ giống ngô lai từ 70 – 75% lên 85-90% (Viện Nghiên cứu ngô, 2005) [40].

Mặc dù vậy, sản lượng ngô của nước ta hiện nay vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Theo GS. TSKH Trần Hồng Uy, mỗi năm cả nước cần khoảng 4,5 triệu tấn ngô, trong khi thực tế mới sản xuất được khoảng 3,7 triệu tấn. Do đó, hàng năm chúng ta vẫn phải nhập khẩu một số lượng ngô lớn để làm thức ăn cho chăn nuôi [41].

Đắk Lắk là một tỉnh miền núi thuộc Cao nguyên Nam – Trung bộ có điều kiện thời tiết khí hậu, đất đai màu mỡ, rất phù hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của cây ngô. Chính vì vậy, từ lâu cây ngô đã là cây trồng quen thuộc với người dân tộc bản xứ, trong đó chủ yếu là các giống ngô địa phương có phẩm chất tốt, nhưng năng suất không cao. Cho đến năm 1995, cây ngô lai mới được đưa vào trồng thử nghiệm tại Đắk Lắk và trở thành một trong những loại cây trồng chính của ngành sản xuất nông nghiệp địa phương.

Những năm gần đây, do có sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng để phù hợp với điều kiện khí hậu thời tiết của từng địa phương trong tỉnh, nhiều diện tích cây công nghiệp lâu năm kém hiệu quả đã được thay thế bằng cây lương thực ngắn ngày, trong đó cây ngô chiếm tỷ lệ ngày càng cao. Hiện nay, diện tích trồng ngô của toàn tỉnh mỗi năm khoảng 120.000 ha, với năng suất bình quân là 50 tạ/ha, sản lượng khoảng 600.000 tấn/năm, là một trong những tỉnh có diện tích trồng ngô lớn nhất cả nước.

Sản phẩm ngô hàng năm đã mang lại thu nhập khá cao cho người nông dân. Đặc biệt là đối với các hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, cây ngô lai được xem như một trong những cây trồng chính và là cây xóa đói, giảm nghèo của nhiều vùng đồng bào dân tộc khó khăn.

Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều giống ngô lai được các nhà sản xuất và cung ứng đưa vào phục vụ nhu cầu canh tác của nông dân. Tuy nhiên, để chọn ra những giống ngô lai phù hợp và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho từng vùng sản xuất vẫn đang là vấn đề có tính cấp thiết hiện nay.

Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn sản xuất, với mục đích chọn ra những giống ngô lai có nhiều đặc tính ưu việt, thích nghi với điều kiện sinh thái của địa phương, nhằm làm phong phú thêm bộ giống, góp phần tăng năng suất và sản lượng ngô trong tỉnh, giúp cho nông dân, nhất là các hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ trên địa bàn tỉnh, nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp để cải thiện đời sống là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết.

Từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “So sánh một số giống ngô lai triển vọng vụ hè thu và thu đông tại Đắk Lắk

2. Mục đích của đề tài

Xác định một số giống ngô lai triển vọng có khả năng sinh trưởng, phát triển tốt, có tính chống chịu tốt và cho năng suất cao, thích nghi với điều kiện sinh thái của địa phương.

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

3.1 Ý nghĩa khoa học

Kết quả đề tài sẽ cung cấp những dẫn liệu khoa học về khả năng sinh trưởng, phát triển, khả năng chống chịu và năng suất của một số giống ngô lai trong vụ hè thu và thu đông tại khu vực nghiên cứu.

Kết quả đề tài sẽ góp phần hoàn thiện quy trình thâm canh cây ngô lai gieo trồng tại địa phương, bổ sung những tư liệu khoa học về cây ngô lai, phục vụ cho các đề tài nghiên cứu tiếp theo và ứng dụng trong thực tế sản xuất.

3.2 Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả đề tài sẽ xác định được những giống ngô lai có triển vọng và thích hợp tại địa phương để đưa vào cơ cấu cây trồng hàng năm, góp phần mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân trên địa bàn huyện Lăk và Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.

4. Phạm vi nghiên cứu

Địa điểm và thời gian nghiên cứu: Đề tài được thực hiện trong 2 vụ (hè thu và thu đông) năm 2008 tại xã Yang Tao, huyện Lăk và xã Tân Hòa, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.

Do thời gian có hạn, nên đề tài chỉ đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển, khả năng chống chịu sâu bệnh và năng suất của 7 giống ngô lai (DK414, CP3Q, 30Y87, LNS222, G49, C919, LVN10), trong đó LVN10 là giống đối chứng.

5. Cấu trúc luận văn

Luận văn được trình bày trong 78 trang không kể tài liệu tham khảo và phụ lục, trong đó có 17 bảng biểu và 08 đồ thị.

Trong quá trình thực hiện, tác giả đã tham khảo 67 tài liệu, trong đó có 41 tài liệu tiếng Việt, 24 tài liệu tiếng Anh và 02 tài liệu từ Internet.

Toàn bộ luận văn gồm có 05 phần. Trong đó gồm:

Mở đầu: 05 trang.

Chương I: Tổng quan tài liệu: 28 trang.

Chương II: Nội dung và phương pháp nghiên cứu: 08 trang.

Chương III: Kết quả và thảo luận: 36 trang.

Kết luận và kiến nghị: 01 trang.

Tải tài liệu

1.

Luận văn thạc sĩ khoa học Nông nghiệp: So sánh một số giống ngô lai triển vọng vụ hè thu và thu đông tại Đắk Lắk

.zip
14.00 MB

Có thể bạn quan tâm

Lưu tài liệu Tải tài liệu