Luận án tiến sĩ chuyên ngành Kinh tế học
Tên luận án: Đo lường và phân tích mức độ tổn thương của hộ gia đình và doanh nghiệp khi xuất hiện các cú sốc bất lợi
Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận
Các nghiên cứu về nghèo ở Việt Nam cho tới nay chỉ xem xét nghèo ở trạng thái đã xảy ra. Trong luận án, tác giả đã đưa ra lý luận về việc cần thiết phải xem xét nghèo tại Việt Nam ở trạng thái dự báo tương lai. Phương pháp hồi quy FGLS và phương pháp mô hình đa cấp đã được sử dụng để thực hiện điều này. Phân tích tính động của trạng thái nghèo vẫn bị bỏ trống trong các nghiên cứu trước tại Việt Nam, và luận án đã chỉ ra việc cần thiết xem xét yếu tố này đối với việc xây dựng chính sách giảm nghèo tại Việt Nam thông qua việc sử dụng mô hình logit đa định danh. Ở cấp độ vĩ mô hơn, luận án cũng đặt ra khả năng về những tác động qua lại giữa các tỉnh lân cận liên quan tới tình trạng nghèo, và do vậy việc tiếp cận vấn đề này bằng kinh tế lượng không gian là cần thiết. Trong các nghiên cứu về nguy cơ tổn thương của doanh nghiệp, các tác giả thường mới chú trọng vào các chỉ tiêu tài chính và ít chú ý tới các chỉ tiêu phi tài chính. Nghiên cứu này đã sử dụng phương pháp DEA để tính hiệu quả kỹ thuật và kết hợp với các mô hình nguy cơ thua lỗ truyền thống như logit hay probit để thực hiện phân tích.
Các phương pháp trong nghiên cứu đã được sử dụng khá nhiều trong các nghiên cứu ở phạm vi thế giới, tuy nhiên việc vận dụng các phương pháp này vào trong nghiên cứu về nghèo và nguy cơ tổn thương nghèo, và nguy cơ tổn thương của doanh nghiệp tại Việt Nam là một điều mới.
Những phát hiện mới từ kết quả nghiên cứu của luận án
Bên cạnh những phát hiện mà nhiều nghiên cứu trước có thể đã chỉ ra, dù rằng sử dụng cách tiếp cận khác nhau, luận án có một số phát hiện mà theo tác giả có thể là tương đối mới như sau: (i) Độ tuổi của chủ hộ có tác động phi tuyến lên nguy cơ tổn thương nghèo và khả năng thoát nghèo của hộ; (ii) Chủ hộ là nam giới có nguy cơ tổn thương với nghèo cao hơn nhưng khả năng thoát nghèo cũng cao hơn chủ hộ là nữ giới; (iii) xảy ra vấn đề tự tương quan không gian giữa các tỉnh, tức là một tỉnh có khoảng nghèo lớn thì tỉnh lân cận cũng có khuynh hướng có khoảng nghèo lớn và ngược lại; (iv) tỷ số nợ càng cao của doanh nghiệp càng làm doanh nghiệp có nguy cơ tổn thương cao hơn; (v) hiệu quả kỹ thuật (đo bằng phương pháp DEA) của doanh nghiệp thấp hơn sẽ làm tăng nguy cơ tổn thương của doanh nghiệp.
Hạn chế của luận án là chuỗi thời gian ngắn do hạn chế về dữ liệu, vấn đề nội sinh của biến bất bình đẳng với biến khoảng nghèo trong mô hình phân tích nghèo ở cấp hộ có thể xuất hiện nhưng chưa có hướng giải quyết, và chưa phân loại được từng dạng nguyên nhân gây sốc.