Luận án tiến sĩ chuyên ngành Luật kinh tế
Tên luận án: Pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất
Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải tích tụ tư bản, trong đó góp vốn là hình thức tích tụ quan trọng nhất. Trong các hình thức góp vốn hiện nay, thì góp vốn bằng đất đai là hình thức góp vốn xuất hiện sớm nhất. Cùng với sự phát triển của kinh tế – xã hội, hình thức góp vốn này có nhiều thay đổi. Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, song trên thực tế Nhà nước không trực tiếp sử dụng đất mà chuyển giao cho các chủ thể khác thông qua giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ). Mặc dù, người sử dụng đất (NSDĐ) không có quyền sở hữu đất đai nhưng có QSDĐ. QSDĐ trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch.
Được ghi nhận trong Điều lệ Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1977 nhưng phải đến khi có Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 thì góp vốn bằng QSDĐ mới được triển khai. Trên thực tế, khi đầu tư vào Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài thường lựa chọn doanh nghiệp Việt Nam để liên doanh, liên kết. Do không có vốn góp nên đa số doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn hình thức góp vốn bằng QSDĐ. Nhiều liên doanh giữa doanh nghiệp Việt Nam với tổ chức, cá nhân nước ngoài được hình thành theo hình thức góp vốn này. Có thể nói, với điều kiện vốn đầu tư trong nước còn hạn chế, thì đây là hình thức tạo vốn phổ biến và quan trọng. Hình thức góp vốn bằng QSDĐ diễn ra chủ yếu tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh [105, tr.81]. Thực tế cho thấy, vốn góp bằng QSDĐ tại các liên doanh không lớn, chỉ chiếm từ 10% đến 20%, trong khi nhiều liên doanh thua lỗ kéo dài, do ít vốn, không chịu được thua lỗ nên các doanh nghiệp Việt Nam phải chuyển nhượng phần vốn góp cho đối tác nước ngoài. Nhiều vụ việc chuyển nhượng vốn góp bằng QSDĐ như: Khách sạn Fortuna, Khu công nghiệp Sài Đồng B… đặt ra những vấn đề cần phải giải quyết không chỉ trên phương diện kinh tế mà còn cả về mặt pháp lý.