Luận án tiến sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Tên luận án: Pháp luật về chống lao động cưỡng bức nhìn từ góc độ phát triển toàn diện
Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới muốn phát triển và tạo sự cạnh tranh, mỗi quốc gia phải biết khai thác thế mạnh và phát huy nội lực. Việt Nam có dân số ở độ tuổi lao động đông và trẻ [3, tr2], đây là một lợi thế cạnh tranh. Vì thế, có thể khẳng định LLLĐ là lực lượng nòng cốt để hoàn thành công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Xã hội ngày một phát triển nhanh chóng vượt bậc, để phát huy tối đa nguồn lực Nhà nước cần có chính sách phù hợp, vì vậy thời gian qua nhiều văn bản sửa đổi, bổ sung, những chính sách mới được ban hành. Trong đó, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt hướng đến phát huy quyền “được làm việc của công dân” được duy trì từ Hiến pháp 1977, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013, Luật Việc làm 2013; quy định cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ của NLĐ trong BLLĐ 2012, Luật Công đoàn 2012 và văn bản hướng dẫn thi hành; quy định pháp luật để bảo vệ và chống việc “mua bán LLLĐ” tại Luật phòng, chống mua bán người 2011, Bộ Luật Hình sự 2015… hệ thống chính sách pháp luật này đã góp phần đáng kể vào việc bảo vệ quyền lợi NLĐ.
Năm 2007, Việt Nam chính thức là thành viên WTO, giúp NLĐ cơ hội tiếp cận công việc thu nhập cao, phù hợp điều kiện bản thân trong và ngoài nước; nhưng tác động của kinh tế thị trường khiến “thị trường lao động” xuất hiện mặt trái. Cụ thể: mâu thuẫn, tranh chấp lao động gia tăng với quy mô và số lượng lớn. Trong 5 năm (2008 – 2012) trở lại đây, ngừng việc tập thể, đình công là 3.016 cuộc [3, tr40] (tăng so với năm 2008: 762 cuộc ngừng việc tập thể, đình công, gấp 3,95 lần). Đặc biệt, qua phương tiện truyền thông cho thấy tình trạng lao động bị cưỡng bức vẫn tồn tại và chưa được xóa bỏ.
Việt Nam nằm trong khu vực có LĐCB chiếm nhiều nhất trên thế giới. Theo số liệu của ILO, thế giới hiện có ít nhất 12,3 triệu LĐCB, trong đó khu vực Châu Á và Thái Bình Dương 9,49 triệu lao động cưỡng bức (chiếm hơn 77%) [32, q1, tr15]. Khắc phục tình trạng này, bên cạnh giải pháp kinh tế, việc sử dụng pháp luật để hạn chế hậu quả có ý nghĩa vô cùng lớn, nhất là đối với các nước chưa có một nền pháp quyền đúng nghĩa như Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Việt Nam có những quy định nào về chống LĐCB; nội dung có phù hợp với yêu cầu phát triển xã hội, với pháp luật quốc tế; những quy định nào đã trở nên bất cập? Giải pháp nào để hoàn thiện pháp luật về chống LĐCB và tạo khung pháp lý phù hợp…